Yuzu | |
---|---|
![]() | |
Phân loại khoa học![]() | |
Giới: | Plantae |
nhánh: | Tracheophyta |
nhánh: | Angiospermae |
nhánh: | Eudicots |
nhánh: | Rosids |
Bộ: | Sapindales |
Họ: | Rutaceae |
Chi: | Citrus |
Loài: | C. junos |
Danh pháp hai phần | |
Citrus junos SieboldexTanaka |
Yuzu (Citrus junos, từ tiếng Nhật柚子dữu tử hoặcユズ) là một loại cây ăn quả có múi thuộc họRutaceae có nguồn gốc từĐông Á. Yuzu được trồng chủ yếu ở Đông Á, mặc dù gần đây cũng có ởNew Zealand,Úc,Tây Ban Nha,Ý vàPháp.[1]
Cây được cho là có nguồn gốc ở miền trung Trung Quốc. Vốn làgiống lai F1 của phân loàiquýt rừng Mãng Sơn củaquýt thường vàcam Nghi Xương.[2][3]
Loại quả này giống như mộtquả bưởi nhỏ với vỏ không đều và có thể có màu vàng hoặc xanh tùy thuộc vào độ chín. Quả yuzu rất thơm, thường có đường kính khoảng từ 5,5 và 7,5 cm (2+1⁄8 và 3 in) nhưng cũng có thể to bằng quả bưởi thường (đến 10 cm hay 4 in, hoặc lớn hơn) và cân nậng khoảng 120 đến 130g.[4]
Yuzu có dạng cây bụi thẳng đứng hoặc cây nhỏ, thường có nhiều gai lớn. Lá cây nổi bật vớicuống lá lớn, giống như lá đơn, giống láchanh Thái và cam Nghi Xương có họ hàng gần và hương thơm nồng.
Yuzu gần giống vớisudachi (Citrus sudachi, mọc ở tỉnh Tokushima, một loại cam lai chéo yuzu-quýt) ở nhiều khía cạnh, tuy nhiên, không giống như sudachi, yuzu khi chín có màu cam và có sự khác biệt tinh tế giữa hương vị của quả.
Yuzu có nguồn gốc ở thượng nguồn sông Dương Tử của Trung Quốc.[4] Cây được du nhập vào Nhật Bản và Hàn Quốc vào thờinhà Đường.[5] Cây phát triển chậm, thường cần mười năm để ra quả. Để rút ngắn thời gian đậu quả, cây có thể được ghép vào karatachi (P. trifoliata). Điều bất thường ở các loại cây có múi là tương đối chịu được sương giá, do loài tổ tiên làcam Nghi Xương vốn chịu lạnh, có thể trồng ở những vùng có mùa đông thấp đến −9 °C (16 °F), nơi cây có múi nhạy cảm hơn sẽ không phát triển mạnh.
ỞNhật Bản, một phiên bản trang trí của yuzu được gọi làhana yuzu (花柚子, 花ゆず (hoa dữu tử), hana yuzu?), "hoa yuzu", cũng được trồng để lấy hoa hơn là lấy quả. Một loại yuzu ngọt được gọi làyuko, chỉ có ở Nhật Bản, đã trở nên nguy cấp nghiêm trọng trong những năm 1970 và 1980; một nỗ lực lớn đã được thực hiện để hồi sinh giống này ở miền nam Nhật Bản.[6] Một loại yuzu khác ở Nhật Bản, có vỏ sần sùi, được gọi làshishi yuzu (獅子柚子 (sư tử dữu tử), shishi yuzu? nghĩa đen "yuzu sư tử").[7]
Dangyuja, một loại quả có múi của Hàn Quốc từđảo Jeju, thường được xem là một loại yuzu do hình dạng và hương vị tương tự, nhưng đó là một loạibưởi về mặt di truyền.
Sản lượng yuzu nội địa là khoảng 27.000tấn (2016).[8] Mặc dù hiếm khi được ăn như một loại trái cây, nhưng yuzu là một thành phần phổ biến trongẩm thực Nhật Bản, trong đó vỏ thơm (vỏ ngoài) và nước cốt được sử dụng nhiều giống như cách sử dụngchanh vàng trong ẩm thực đa dạng.[9] Hương vị yuzu chua và thơm, gần giống với hương vị bưởi, với hươngquýt.[10]
Quả là một thành phần không thể thiếu (cùng vớisudachi,daidai và các loại quả có múi tương tự khác) trong nước sốtponzu làm từ các loại chanh vàgiấm yuzu cũng được sản xuất.[9] Yuzu thường được kết hợp với mật ong để làmyuzu hachimitsu (柚子蜂蜜dữu tử phong mật), một loại siro dùng để pha trà yuzu (柚子茶dữu tử trà), hoặc là một thành phần trong đồ uống có cồn như yuzu chua (柚子サワー).[11]Yuzu kosho (cũng làyuzukosho , nghĩa đen là "yuzu và hạt tiêu") là một loại nước sốt cay của Nhật Bản được làm từ vỏ quả yuzu xanh hoặc vàng,ớt xanh hoặc đỏ và muối.[3]
Quả được sử dụng để làm rượu (chẳng hạn nhưyuzukomachi ,柚子小町dữu tử tiểu đinh) và rượu vang.[12][13] Vỏ quả yuzu cắt nhỏ được dùng để trang trí món bánh pudding trứng muối có vị mặn gọi làchawanmushi, cũng nhưsúp miso.[14] Nó thường được sử dụng cùng vớisudachi vàkabosu. Yuzu được sử dụng để làm nhiều loại đồ ngọt khác nhau, bao gồmmứt cam vàbánh ngọt. Quả được sử dụng rộng rãi trong hương liệu của nhiều sản phẩm ăn nhẹ, chẳng hạn nhưDoritos.[15][16][17]
Trongẩm thực Hàn Quốc, yuja được sử dụng phổ biến nhất để làmyuja-cheong (유자청, mứt cam yuja) vàtrà yuja.Yuja-cheong có thể được nấu bằng yuja đã gọt vỏ ngâm đường, tách nước và thái lát mỏng. Mónyuja-cha, trà yuja, có thể nấu bằng cách pha nước nóng vớiyuja-cheong.[3]Yuja-hwachae (유자화채, rượu punch yuja), nhiều loạihwachae (rượu punch trái cây), là một món tráng miệng phổ biến khác được nấu cùng yuja. Yuja cũng là thành phần phổ biến trongmón ăn phương Tây kiểu Hàn Quốc, chẳng hạn nhưxa lát.[18]
Yuzu cũng được biết đến với hương thơm nồng đặc trưng và dầu từ vỏ được bán trên thị trường dưới dạng nước hoa. Ở Nhật Bản, tắm với yuzu vào ngàyđông chí, là một phong tục có muộn nhất từ đầu thế kỷ 18 đến nay.[19][10][20][21][22] Toàn bộ quả yuzu được thả nổi trong nước nóng của bồn tắm, đôi khi được bọc trong túi vải để tỏa hương thơm.[23] Quả cũng có thể được cắt đôi, để cho nước ép quả hòa với nước tắm. Tắm cùng yuzu, thường được gọi làyuzu yu (柚子湯.dữu tử thang), còn có tên làyuzu buro (柚子風呂,dữu tử phong lã), được cho là có tác dụng chống cảm lạnh, trị da sần sùi, làm ấm cơ thể và thư giãn đầu óc.[10][20]
Phần thân củataepyeongso, một loại kèn oboe truyền thống của Hàn Quốc, gần giống với kèntỏa niệt của Trung Quốc hoặczurna, thường được chế tạo từ gỗtáo tàu,dâu tằm hoặc yuzu.[24]
Bắt đầu từ đầu thế kỷ 21, yuzu ngày càng được các đầu bếp ở Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây khác sử dụng nhiều hơn, gây chú ý trong một bài báo năm 2003 trên tờThe New York Times.[25]
TạiHoa Kỳ,Bộ Nông nghiệp có lệnh cấm nhập khẩu yuzu tươi (cùng với hầu hết các loại quả có múi) từ nước ngoài, bao gồm cả quả và cây.[26] Điều này nhằm ngăn chặn lây lan bệnh truyền nhiễm giữa các loại cây trồng trong nước.[25][27]
Yuzu is also even used in the flavoring of many snack products, such as chips and chocolate bars.
Yuzuyu dates from the Edo period (1603–1868) and may have been partially inspired by a form of Japanese wordplay called goroawase — the characters for "winter solstice" (冬至) and "hot-spring cure" (湯治) can both be read as tōji.