Yumjaagiin Tsedenbal Юмжаагийн Цэдэнбал | |
|---|---|
Chức vụ | |
| Nhiệm kỳ | 22 tháng 11 năm1958 – 24 tháng 8 năm1984 25 năm, 276 ngày |
| Tiền nhiệm | Dashiin Damba |
| Kế nhiệm | Jambyn Batmönkh |
| Nhiệm kỳ | 11 tháng 6 năm1974 – 23 tháng 8 năm1984 10 năm, 73 ngày |
| Tiền nhiệm | Sonomyn Luvsan |
| Kế nhiệm | Nyamyn Jagvaral |
| Nhiệm kỳ | 26 tháng 1 năm1952 – 11 tháng 6 năm1974 22 năm, 136 ngày |
| Tiền nhiệm | Khorloogiin Choibalsan |
| Kế nhiệm | Jambyn Batmönkh |
| Nhiệm kỳ | ngày8 tháng 4 năm1940 – ngày4 tháng 4 năm1954 13 năm, 361 ngày |
| Tiền nhiệm | Dashiin Damba |
| Kế nhiệm | Dashiin Damba |
Thông tin cá nhân | |
| Sinh | (1916-09-17)17 tháng 9 năm 1916 Davst,Uvs,Ngoại Mông,Trung Hoa Dân Quốc |
| Mất | 20 tháng 4 năm 1991(1991-04-20) (74 tuổi) Moskva,Liên Xô |
| Đảng chính trị | Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ |
| Con cái | Vladislav Zorig |
Binh nghiệp | |
| Cấp bậc | Thống chế quân đội Nhân dân Mông Cổ (1979-1991) |

Yumjaagiin Tsedenbal (tiếng Mông Cổ:Юмжаагийн Цэдэнбал; 17 tháng 9 năm 1916 – 20 tháng 4 năm 1991) là người đứng đầu nhà nướcMông Cổ từ năm 1940 đến năm 1984. Ông đảm nhiệm chức danhthủ tướng và Thống chếquân đội Nhân dân Mông Cổ cho đến khi qua đời.
Tsedenbal được sinh ra trong một gia đình nghèo thuộc bộ tộc du mụcDörvöd tại hoshuu Zorigt Khan thuộc lãnh thổ của Unen Zorigt Khan (nay làDavst sum,Uvs aimag). Ông là con thứ năm trong gia đình gồm mười một người con (ba người đã mất từ khi còn nhỏ).
Năm 1925, Tsedenbal trở thành học sinh đầu tiên tại một trường công lập mới mở tạiUlaangom, và theo học tại đó tới năm 1929, khi ông chuyển tớiIrkutsk để tiếp tục học cao hơn. Ông đã dành chín năm sống ở Irkutsk vàUlan-Ude. Tsedenbal đã nhận được bằng tốt nghiệp từ Học viện Tài chính và Kinh tế Siberian.

Năm 1939, khi trở lạiUlaanbaatar, Tsedenbal bắt đầu làm việc với tư cách Thứ trưởng và sau đó là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Năm 1940, tại đại hội lần thứ X của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ, ông trở thành Tổng thư ký của Đảng ở tuổi 23.
Sau khi đạt được quyền lực vào năm 1952 với cái chết của Thống chếKhorloogiin Choibalsan, Tsedenbal bắt đầu tiến hành thanh trừng các đối thủ chính trị của mình:Dashiin Damba năm 1958–59,Daramyn Tömör-Ochir năm 1962,Luvsantserengiin Tsend năm 1963, gọiTsogt-Ochiryn Loohuuz,Baldandorjiin Nyambuu vàBandiin Surmaajav là "các thành phần phản đảng" năm 1964. Ông tiếp tục tại vị đến tháng 11 năm 1964, khi ông trở thành người đứng đầu nhà nước Mông Cổ.
Chủ trương đối ngoại của ông là cố gắng đưa Mông Cổ tiến gần hơn vớiLiên Xô. Dù vậy, Tsedenbal và các lãnh tụ khác của Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (như Tsagaan-Lamyn Dugersuren và Damdinjavyn Maidar) lại tỏ ý không hài lòng với chính sách kinh tế mà Liên Xô dành cho Mông Cổ. Trong khi Liên Xô muốn Mông Cổ tập trung vào ngành nông nghiệp và khai thác khoáng sản, Tsedenbal và những người ủng hộ lại muốn đưa Mông Cổ trở thành một nước công nghiệp, bất chấp sự phản đối của Liên Xô.[1] Đồng thời, Tsedenbal thường xuyên bày tỏ sự trung thành của mình với Kremlin và miêu tả những người có đường lối khác biệt trong đảng của mình là "thân Trung Hoa" và "dân tộc chủ nghĩa."[2]
Với sự ủng hộ tuyệt đối của Liên Xô, Tsedenbal đã hoàn thành công cuộc thanh trừng các đối thủ chính trị của mình. Trong suốt thời kỳ lãnh đạo đất nước, Tsedenbal đã nhiều lần đề nghị để Mông Cổ gia nhập Liên Xô, nhưng các đề nghị này luôn bị các lãnh đạo Liên Xô bác bỏ. Trong thời kỳChia rẽ Trung – Xô, Tsedenbal luôn đứng về phía Liên Xô và điều đó đã khiến Trung Quốc tức giận.[cần dẫn nguồn]
Tsedenbal bị ép phải từ chức vào tháng 8 năm 1984 trong một động thái được Liên Xô ủng hộ, được lý giải là do sự suy sụp cả về thể chất lẫn tinh thần của ông, nhưng chủ yếu là do việc ông phản đối việc làm ấm quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc.Jambyn Batmönkh trở thành Tổng thư ký mới của Đảng Nhân dân Cách Mạng Mông Cổ. Tsedenbal sống tạiMoskva cho đến khi qua đời; thi hài của ông được đưa về chôn cất tại Mông Cổ
Người vợ mang quốc tịchNga của ông,Anastasia Ivanovna Filatova (Анастасия Ивановна Филатова), thường được xem là một trong những biểu tượng quyền lực của Mông Cổ[cần dẫn nguồn] vì có quan hệ mật thiết với lãnh đạo Liên XôLeonid Brezhnev.
Mông Cổ
Nước ngoài
| Chức vụ Đảng | ||
|---|---|---|
| Tiền nhiệm: Dashiin Damba | Tổng thư ký Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ ngày 8 tháng 4 năm 1940 – ngày 4 tháng 4 năm 1954 | Kế nhiệm: Dashiin Damba |
| Tiền nhiệm: Dashiin Damba | Tổng thư ký Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ ngày 22 tháng 11 năm 1958 – ngày 24 tháng 8 năm 1984 | Kế nhiệm: Jambyn Batmönkh |
| Chức vụ chính trị | ||
| Tiền nhiệm: Khorloogiin Choibalsan | Thủ tướng Mông Cổ ngày 26 tháng 1 năm 1952 – ngày 11 tháng 6 năm 1974 | Kế nhiệm: Jambyn Batmönkh |
| Tiền nhiệm: Sonomyn Luvsan | Chủ tịch nước Mông Cổ ngày 11 tháng 6 năm 1974 – ngày 8 tháng 8 năm 1984 | Kế nhiệm: Nyamyn Jagvaral |
Bản mẫu:Leaders of CPMBản mẫu:Thủ tường Mông CổBản mẫu:Heads of state of Mongolia