Ytri tương đối ổn định trong không khí, trông khá giốngscandi ở bề ngoài và về tính chất hóa học thì tương tự như các nguyên tốnhóm Lanthan, khi bị phơi ra ngoài ánh sáng có ánh hơi hồng. Các mảnh vụn hay phoi bào của kim loại này có thể bắt cháy trong không khí khi nhiệt độ cao trên 400 °C. Khi ytri bị chia cắt mịn thì nó rất không ổn định trong không khí. Kim loại này cótiết diện neutron thấp để bắt giữ hạt nhân. Trạng thái oxy hóa phổ biến nhất của ytri là +3.
Ytri(III) oxide là hợp chất quan trọng nhất và được sử dụng rộng rãi để tạo ra các chất lân quang YVO4:Eu và Y2O3:Eu để tạo ra màu đỏ trong các ống tia âm cực dùng chotruyền hình màu. Các ứng dụng khác có:
Các loại ngọc hồng lựu ytri sắt,nhôm,gadolini (ví dụ Y3Fe5O12 và Y3Al5O12) có các tính chất từ tính rất đáng chú ý. Ngọc hồng lựu ytri sắt có hiệu suất cao trong vai trò của bộ chuyển năng và truyền dẫn năng lượng âm thanh.Ngọc hồng lựu ytri nhôm có độ cứng 8,5 và cũng được sử dụng như làđá quý (kim cương giả).
Các lượng nhỏ của ytri (0,1 tới 0,2%) đã từng được sử dụng để giảm kích thước hạt củachromi,molybden,titani,zirconi. Nó cũng được dùng để tăng sức bền của các hợp kim nhôm vàmagnesi.
Các tinh thểngọc hồng lựu ytri nhôm kích thích bằngceri (YAG:Ce) được dùng làm chất lân quang để làm cácLED phát ánh sáng trắng.
Các vi cầu ytri-90 có tiềm năng được dùng trong điều trịung thư biểu mô gan không thể cắt bỏ.
Ytri được dùng như là nguyên tố "bí mật" trongchất siêu dẫnYBCO phát triển tạiĐại học Houston,YBaCuO. Chất siêu dẫn này làm việc trên 90K, đáng chú ý vì nó là trên điểm sôi củanitơ lỏng (77,1K). (Y1,2Ba0,8CuO4). Vật liệu được tạo ra là khoáng vật đa tinh thể đa pha, có màu đen và lục.
Ytri được nghiên cứu để tìm kiếm khả năng sử dụng như là tác nhân tạo hòn trong sản xuấtgang mềm với độ mềm dẻo củagang tăng lên (graphit tạo thành các hòn rắn chắc thay vì các mảnh như bông để tạo ra gang mềm). Về tiềm năng, ytri có thể sử dụng trong sản xuất gốm và thủy tinh, do oxide ytri cóđiểm nóng chảy cao và sức kháng va chạm cao cùng hệ sốgiãn nở nhiệt thấp.
Ytri (đặt tên theoYtterby, một làng ở Thụy Điển gầnVaxholm) được nhà hóa học, nhà vật lý kiêm nhà khoáng vật học người Phần Lan làJohan Gadolin phát hiện ra năm1794. Năm 1828,Friedrich Wöhler đã cô lập nó như là chất chiết ra không tinh khiết từytria thông qua phản ứng khử chloride ytri khan (YCl3) bằngkali. Ytria (Y2O3) là oxide của ytri, được Johan Gadolin phát hiện năm1794 trong khoáng vậtgadolinit lấy từ Ytterby.
Năm1843, nhà hóa học người Thụy ĐiểnCarl Mosander đã chứng minh rằng ytria có thể chia ra thành các oxide (hay các loại đất) của ba nguyên tố khác nhau. "Ytria" là tên gọi được giữ lại cho oxide có tínhbase nhất (chiếm khoảng 2/3), còn các oxide kia được đổi tên thànherbi vàterbi. Muộn hơn trong thế kỷ 19, cả hai loại "oxide" kia cũng được chứng minh là phức tạp, mặc dù các tên gọi vẫn được giữ lại cho thành phần có tính chất đặc trưng nhất của loại "đất" đó.)
Mỏ khai thác cạnh làngYtterby sản sinh nhiều khoáng vật không bình thường chứa cácnguyên tố đất hiếm cùng các nguyên tố khác. Các nguyên tốerbi,terbi,yterbi và ytri tất cả đều được đặt tên theo tên gọi của làng nhỏ này.
Nguyên tố này được tìm thấy gần như trong mọi loạikhoáng vật đất hiếm cũng như trong các loạiquặngurani nhưng không tìm thấy ở dạng tự do trong tự nhiên. Nó được sản xuất ở quy mô thương mại bằng cách khử fluoride ytri (YF3) vớicalci kim loại nhưng cũng có thể được sản xuất bằng các kỹ thuật khác. Nó rất khó tách ra từ các nguyên tố đất hiếm khác và khi tách được thì nó là chất bột màu xám sẫm.
"Đất hiếm" ceria (1803) và ytria (1794) nguyên bản phản ánh sự phân chia địa hóa học lớn diễn ra giữa các nguyên tốnhóm lanthan nhẹ hơn và nặng hơn do "sự teo lại lanthan". Các nguyên tố nhóm lanthan nhẹ hơn, với bán kính nguyên tử lớn hơn, tham dự vào các khoáng vật tại các vị trí với số phối hợp cao hơn (ví dụmonazit), trong khi các nguyên tố nhóm lanthan nặng hơn nhưng bán kính nguyên tử nhỏ hơn lại ưa thích các số phối hợp thấp hơn (như trongxenotim). Các nguyên tố nhóm lanthan nhẹ hơn cũng tương đối phổ biến hơn trong lớp vỏ Trái Đất khi so với các nguyên tố nhóm nặng, tương xứng với sự phổ biến trong các vẫn thạchchondrit, do sự phân đoạn kích thước. Ytri rơi vào khoảng trung bình về kích thước của nhóm nặng và vì thế chắc chắn có mặt cùng chúng trong các khoáng vật này, trong đó nó chiếm khoảng hai phần ba hỗn hợp các oxide theo trọng lượng. Thành phần như vậy là điển hình của gadolinit, xenotim và một vài dạng đất sét hấp thụ ion.
Ytri tự nhiên chỉ bao gồm mộtđồng vị (Y89). Cácđồng vị phóng xạ ổn định nhất là Y88 cóchu kỳ bán rã 106,65 ngày và Y91 với chu kỳ bán rã 58,51 ngày. Tất cả các đồng vị khác có chu kỳ bán rã nhỏ hơn 1 ngày, ngoại trừ Y87 với chu kỳ bán rã 79,8 giờ. Phương thức phân rã chủ yếu của các đồng vị dưới Y89 làbắt điện tử còn phương thức chủ yếu của các đồng vị trên Y89 làbức xạ beta. Hai mươi sáu đồng vị không ổn định đã được nêu đặc trưng.
Các hợp chất chứa nguyên tố này hiếm khi được bắt gặp, nhưng nên hết sức cẩn thận do chúng có độc tính cao. Các muối của ytri có thể có khả năng gây ung thư.
^J. Kong (2005). D.Y.Tang, B. Zhao,J.Lu, K.Ueda, H.Yagi và T.Yanagitani. “9.2-W diode-pumped Yb:Y2O3 ceramic laser”.Applied Physics Letters.86: 161116.doi:10.1063/1.1914958.line feed character trong|others= tại ký tự số 19 (trợ giúp)
^M.Tokurakawa (2007). K.Takaichi, A.Shirakawa, K.Ueda, H.Yagi, T.Yanagitani, A. A. Kaminskii. “Diode-pumped 188 fs mode-locked Yb3+:Y2O3 ceramic laser”.Applied Physics Letters.90: 071101.doi:10.1063/1.2476385.