Bài này viết về vị đệ tử của Phật. Đối với vị tăng thế kỷ 15, xemŚāriputra (thế kỷ 15). Đối với vị tăng học giả người Sri Lanka thế kỷ 12 của Phật giáo Theravāda, xemSāriputta (thế kỷ 12).
Xá-lợi-phất (Śāriputra; tiếng Pali:Sāriputta,chữ Hán: 舍利弗; tên khai sinhUpatiṣya - tiếng Pali:Upatissa) là một trongnhững đệ tử xuất chúng nhất củaPhật. Ông cùngMục-kiền-liên (tiếng Pali:Moggallāna) được tôn làm haiđệ tử nam thượng thủ của Phật; riêng Xá-lợi-phất đứng đầu về trí tuệ. Trong giáo đoàn, ông nhiều lần đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo; trong nhiều truyền thống Phật giáo, ông còn được xem là nhân vật then chốt trong sự hình thànhVi Diệu Pháp (Abhidharma). Xá-lợi-phất cũng xuất hiện thường xuyên trongkinh điển Đại thừa, và ở một số kinh còn được đặt làm đối chứng đại diện cho truyền thốngTiểu thừa.
Các sử gia cho rằng Xá-lợi-phất sinh ở vương quốc cổMa-kiệt-đà vào khoảng thế kỷ 6-5 TCN. Theo kinh điển Phật giáo, ông và Mục-kiền-liên là bạn nối khố, cùng xuất gia cầu đạo. Sau thời gian theo học các thầy đương thời, hai người gặp giáo pháp của Phật, thọ giới làm tỳ-kheo trongTăng đoàn và được tuyên bố là hai đệ tử thượng thủ; riêng Xá-lợi-phất chứng quảA-la-hán sau khi thọ giới hai tuần. Với cương vị đệ nhất thượng thủ, ông phụ Phật điều hànhTăng đoàn - chăm sóc chư tăng, phân công đề mục thiền quán, làm sáng tỏ nhiều điểm giáo nghĩa - và là đệ tử đầu tiên được Phật ủy quyền truyền giới cho người khác. Xá-lợi-phất viên tịch ngay trước Phật tại quê nhà, được hỏa táng. Theo kinh điển,Kỳ Viên từng tôn thờ xá-lợi của ông; phát hiện khảo cổ từ thế kỷ 19 gợi rằng xá-lợi có thể đã được các triều vua đời sau phân bổ khắp tiểu lục địa Ấn Độ.
Trong truyền thốngTheravada, Xá-lợi-phất được kính xưng là bậc đệ tử thượng thủ có trí tuệ bậc nhất, vị trí chỉ sau Phật. Trongnghệ thuật Phật giáo, ông thường đứng bên phải Phật. Sự nghiêm trìgiới luật, trí tuệ và khả năng hoằng pháp đem lại cho ông danh hiệu “Tướng quân của Pháp” (Sanskrit:Dharmasenāpati; Pali:Dhammasenāpati). Đệ tử nữ tương ứng phía Ni của Phật làKṣemā (Pali:Khemā).
Kinh điển Pāli kể rằng trong quá khứ xa xưa, Xá-lợi-phất từng là một người giàu tên Sarada, xả tài sản vào rừng tu và có nhiều đồ chúng. Khi Phật quá khứ Cao Kiến (Anomadassi) đến thuyết pháp cùng hai đệ tử thượng thủ, nghe vị thượng thủ đầu là Nisabha giảng, Sarada phátnguyện sẽ làm đệ tử thượng thủ thứ nhất của một vị Phật tương lai; nguyện này được chính Phật Anomadassī thọ ký. Sarada sau đó khuyên bạn thân Sirivaddhana phát nguyện làm đệ tử thượng thủ thứ hai; Sirivaddhana cũng được thọ ký.[6] Hai người tiếp tục tạo nhiều công đức trong đời ấy và nhiều đời sau.[7] Theo truyền thuyết, lời nguyện thành tựu ở thời Phật Thích-ca: Sarada tái sinh thành Xá-lợi-phất, còn Sirivaddhana thành Mục-kiền-liên.[6][7]
Mộtstupa thờ Śāriputra tại tu viện cổNalanda. Nyanaponika Thera cho rằng Nalanda có lẽ gần nơi Xá-lợi-phất sinh và mất.[8]
Kinh sách mô tả Xá-lợi-phất - tên khai sinh Upatiṣya (Pali:Upatissa) - sinh trong một gia đình giàu có ở một làng gầnRājagaha (Vương Xá) thuộcMa-kiệt-đà.[9][10][11] Theo truyền thốngCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, tên ông lấy theo tên cha; còn chú giảiPali củaTheravada nói đặt theo tên làng.[10][note 1] Du tăng Trung HoaPháp Hiển gọi làng ấy là Nāla (Nālaka),[12] cònHuyền Trang gọi là Kālapināka.[13] Vị trí cụ thể được xác định theo nhiều giả thiết: nay là Sarichak,[14] Chandiman (Chandimau),[15] hoặc Nanan (được đa số xem là khả dĩ nhất).[16][17]
Upatiṣya được mô tả là có “nước da vàng”.[18][19] Ông có sáu anh chị em: ba em trai Upasena, Cunda, Revata; ba em gái Cāla, Upacālā, Sīsupacālā - về sau đều trở thànhA-la-hán.[20][21] Theo truyền thống Pali, cha ông là Vangunta; theoCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, cha tên Tiṣya (Pali:Tissa).[10] Mẹ ông là Śārī (còn gọi Rūpaśārī, Śārika, hoặc Śāradvatī) - vì “đôi mắt như chim śārika”; do mẹ mà ông được gọi là Śāriputra (“con của Śāri”), đôi khi là Śāradvatīputra (“con của Śāradvatī”).[22][23]
Upatiṣya sinh cùng ngày với Kolita (về sau làMục-kiền-liên), một cậu bé ở làng bên; hai gia đình kết thân bảy đời, nên hai người thành bạn tri kỷ.[24][9][25] Cả hai đều được giáo dục kỹ lưỡng vềVệ-đà và mỗi người có một nhóm thanh niên đi theo. Trong một lễ hội ở Rājagaha, ý thức về vô thường trỗi dậy, thôi thúc họ phát khởitâm khẩn thiết cầu đạo.[20][26]
Chạm ngà mô tả Śāriputra và Maudgalyāyana trở thành đệ tử của Phật
Rời Sañjaya, Upatiṣya gặp tỳ-kheoA-thuyết-thị (tiếng Pali:Assaji), một trong nămA-la-hán đầu tiên. Ấn tượng trước phong thái an tĩnh, ông xin thỉnh pháp.[33] A-thuyết-thị nói mình mới thọ giới không lâu nhưng sẽ nói phần mình biết, rồi tụng bàikệ Duyên sinh nổi tiếng:[34]
“
Vạn vật từ duyên khởi,
Bậc Giác Ngộ từng thuyết;
Và rồi từ duyên diệt,
Đại Đạo Sư đã truyền.
”
—
Bài kệ này được khắc trên nhiều tượng Phật và truyền tụng trong thế giới Phật giáo.[35] Triết giaPaul Carus cho rằng kệ từ bỏ ý niệm “can thiệp thần thánh” vốn phổ biến trongBà-la-môn cổ đại, khẳng định mọi pháp sinh và diệt đều do nhân duyên.[36]
Nghe xong, Upatiṣya chứngtu-đà-hoàn, bậc đầu củabốn thánh quả.[34] Ông về kể lại cho Kolita; khi nghe tụng lại bài kệ, Kolita cũng chứngtu-đà-hoàn.[32][37][note 2] Hai người, cùng nhiều đệ tử của Sañjaya, đếnTinh xá Trúc Lâm xin yết kiến vàthọ giới tỳ-kheo dưới Phật; hôm ấy tất cả đều chứngA-la-hán trừ Upatiṣya và Kolita.[32][39][40] Nyanaponika Thera giải thích hai vị cần chuẩn bị lâu hơn để đảm nhận vai trò thượng thủ.[41] Một số văn bản mô tả lễ thọ giới có yếu tố kỳ diệu - y phục tự biến thành ca-sa, tóc tự rụng.[40] Từ đây Upatiṣya được gọi là Xá-lợi-phất (Pali:Sāriputta), còn Kolita là Mục-kiền-liên (Pali:Moggallāna).[41]
Ngay sau khi hai vị thọ giới, Phật tuyên bố họ là hai đệ tử thượng thủ (Pali:aggasavaka), theo truyền thống các Phật quá khứ.[32][42][43] Vì họ mới thọ giới nên một số tỳ-kheo thấy chạnh lòng; Phật giải thích rằng trao vai trò ấy vì cả hai đãphát nguyện từ nhiều đời.[7][44] Mục-kiền-liên chứngA-la-hán bảy ngày sau nhờ tu thiền miên mật; Xá-lợi-phất chứngA-la-hán sau hai tuần, khi đang quạt cho Phật thuyếtKinh Quán Thọ (Vedanāpariggaha Sutta) cho một du sĩ.[32][45] Pali nói người du sĩ là cháu Xá-lợi-phất; bản Trung Hoa, Tạng, Sanskrit lại ghi là cậu. TheoAtthakatha, Xá-lợi-phất cần thời gian lâu hơn vì tri kiến của vị đệ nhất thượng thủ phải toàn diện hơn.[46]
Chú giải kinh Pháp Cú (Dhammapada) kể rằng sau khi thọ giới, Xá-lợi-phất giữ lòng tri ân sâu sắc với trưởng lão A-thuyết-thị suốt đời. Bất cứ khi nào họ sống chung tại một tu viện, Xá-lợi-phất luôn đảnh lễ A-thuyết-thị ngay sau khi đảnh lễ Phật, vì ông nghĩ: "Vị trưởng lão này là thầy đầu tiên của tôi. Nhờ ông mà tôi đến được với giáo pháp của Phật."[47] Khi A-thuyết-thị trú tại tu viện khác, Xá-lợi-phất dùngthiên nhãn quan sát hướng mà vị trưởng lão đang ở, rồi đảnh lễ về hướng đó bằng cách chạm đất năm điểm (đầu, hai tay, hai chân) và chắp tay cung kính; khi nằm nghỉ, ông đặt đầu về phía ấy để tỏ lòng tôn kính.[48][49] Thấy vậy, các tỳ-kheo nghi ngờ báo với Phật rằng Xá-lợi-phất vẫn "thờ các phương trời" như tập tụcBà-la-môn giáo. Phật giải thích rằng ông đang tỏ lòng kính trọng người thầy đầu tiên đã dẫn ông đến với Chánh pháp, chứ không phải thờ phương trời.[50][47] Nhân đó, Phật thuyết Kinh Mới (Nava Sutta) trongSutta-Nipata, mở đầu bằng ý: "Như chư thiên đảnh lễĐế Thích, con người cũng nên tôn kính người mà từ đó mình học được Chánh pháp."[47]
Xá-lợi-phất là đệ nhất thượng thủ của Phật, bậc nhất về trí tuệ - danh hiệu ông cùng ni sưKṣemā (Pali:Khemā) chia sẻ.[51] Ông giữ vai trò cặp “đệ tử thượng thủ - bạn đồng hành thù thắng” (Pali:sāvakayugaṁ aggaṁ bhaddayugaṁ) với Mục-kiền-liên nhưMahāpadāna Sutta mô tả.[52]Mahāvagga cho biết hai vị lần lượt bậc nhất về trí tuệ vàthần thông.[53] Văn bản kể không ai ngoài Mục-kiền-liên trả lời được những câu hỏi dành cho ông; ngược lại, Mục-kiền-liên cũng không giải được những câu chỉ Xá-lợi-phất có thể.[54] Truyền thống ghi Xá-lợi-phất ngồi bên tay phải Phật, Mục-kiền-liên bên trái; hình tượng hai vị được xem như “hai cánh tay” của Phật.[5][55][56]
Với vai trò ấy, Xá-lợi-phất thường hệ thống hóa và phân tích giáo pháp.[5] Kinh tạng ghi ông thường hỏi Phật, thỉnh pháp và tự mình làm rõ các điểm, chất vấn đệ tử - nhiều khi như để khảo nghiệm tri kiến.[57][58] Không ít lần Phật nêu đề tài rồi để ông khai triển.[59] Trong hai kinh thuộcTam Tạng -Kinh Thập Thượng (Dasuttara Sutta) vàKinh Phúng Tụng (Saṅgīti Sutta) - Phật bảo nghỉ lưng, để Xá-lợi-phất thuyết thay, còn ngồi nghe giữa đại chúng.[32][54][60] Khả năng thuyết pháp khiến ông được tôn là “Tướng quân của Pháp” (Dharmasenapati).[32][54][59] Tuy vậy, kinh cũng ghi vài lần ông bị Phật quở trách: trongCatuma Sutta, khi nhóm tỳ-kheo trẻ ồn ào bị đuổi đi, Phật nhắc lẽ ra hai vị thượng thủ phải chủ động trông nom tăng chúng - điều Mục-kiền-liên hiểu mà Xá-lợi-phất chưa suy ra.[61] Một lần khác, Phật quở vì ông hướng dẫn Bà-la-môn Dhanañjani theo cách sinh về cõiPhạm thiên thay vì con đường đưa tới giải thoát.[54][62]
Xá-lợi-phất còn gánh vác nhiều công việcTăng đoàn: thay Phật thăm nom tỳ-kheo bệnh, viếng thăm cư sĩ sắp qua đời, v.v.[54] Có khi Phật dạy nhóm tỳ-kheo trước lúc đi đâu phải xin phép Xá-lợi-phất.[54] Ông là đệ tử đầu tiên được giao truyềngiới cụ túc, kể cả truyền giới choLa-hầu-la, con trai Phật.[63] Trong huấn luyện, ông chu đáo cả vật chất lẫn tinh thần, đồng thời phân công đề mục thiền quán.[64]Saccavibhanga Sutta ví ông như người mẹ sinh con, còn Mục-kiền-liên như người vú nuôi: Xá-lợi-phất đưa đệ tử đến bậcnhập lưu, Mục-kiền-liên dìu tiếp lênA-la-hán.[59][64][note 3] Dẫu vậy, Nyanaponika Thera cũng ghi nhiều trường hợp Xá-lợi-phất đưa đệ tử đạt cácbậc cao hơn.[66]
Kinh sách mô tả Xá-lợi-phất hăng hái tranh luận, hóa độngoại đạo - một đặc quyền lớn của ông.[67] TheoCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, khisáu đạo sư ngoại đạo thách thức, Phật cử Xá-lợi-phất ứng chiến. Mūlasarvāstivāda kể ông dùng thần thông tạo bão, hóa hiện nhiều thân, hàng phục các đạo sư, khiến dânXá-vệ quy y.[68] KhiĐề-bà-đạt-đa gâychia rẽ và kéo theo một số tỳ-kheo, Xá-lợi-phất đóng vai trò chính trong việc thống hợp Tăng đoàn: ông và Mục-kiền-liên giả vờ theo phe Đề-bà-đạt-đa; nhân khi ông này “đau lưng” nhờ Xá-lợi-phất thuyết thay rồi ngủ quên, hai vị đưa đồ chúng trở về với Phật.[69][63]
Tượng mạ vàng Xá-lợi-phất từ Miến Điện.
Nhiều văn bản quy công Xá-lợi-phất trong việc hình thànhgiới luật Tăng: chính ông thỉnh Phật chế giới; Phật đáp “đến đúng thời sẽ chế”.[54] Ông nổi tiếng cẩn trọng, trì giới mực thước: có chuyện ông mắc bệnh có thể chữa bằng tỏi nhưng không dùng vì Phật đã chế giới cấm; chỉ sau khi Phật rút giới mới dùng.[54][59] Lần khác, thấy bánh ngọt khiến tham ăn, ông phát nguyện kiêng.[59] Một chú giải kể khi chư tăng đi khất thực, ông tỉ mỉ dọn dẹp tu viện để ngoại đạo không có cớ chê bai.[59] Một số văn bản nói ông từng sinh làm rắn ở đời trước nên đôi lúc cứng rắn: trongĐại chúng bộ, Phật phạt ông đứng nắng vì không ngăn tỳ-kheo phát ngôn sai; trongHóa địa bộ, ông kiên quyết không ăn một loại quả - dù là thuốc - sau khi bị nghi lén ăn ngon; Phật cũng dẫn chuyện “đời rắn” để giải thích.[70]
Dù Mục-kiền-liên bậc nhất thần thông, nhiều văn bản vẫn ghi Xá-lợi-phất cũng hiện thần thông: bay, thăm các cõi, có túc mạng minh, thiên nhãn - những năng lực thường thấy nơiA-la-hán.[71] Có chuyện mộtdạ xoa đánh đầu khi ông đang thiền; hỏi thăm, ông nói không hề nhận ra, chỉ hơi nhức đầu.[59] Mục-kiền-liên khen sức nhẫn chịu nhờ định lực;Patisambhidamagga nêu ông như ví dụ “thần thông do sức định can thiệp” (Pali:samādhivipphāra-iddhi).[72] Mūlasarvāstivāda kể Xá-lợi-phất và Maudgalyāyana xuốngđịa ngục Vô Gián báo lời thọ ký rằngĐề-bà-đạt-đa sẽ thành Độc giác Phật (pratyekabuddha).[73] Khi ấy Mục-kiền-liên làm mưa giảm khổ nhưng mưa tan; Xá-lợi-phất dùng định dựa trên trí để tạo mưa bền hơn.[74] Một bản khác kể Phật sai Mục-kiền-liên đi gọi Xá-lợi-phất đang may vá; khi ông nói sẽ đi sau khi khâu xong, Mục-kiền-liên dùng thần thông rung đất giục đi mà Xá-lợi-phất vẫn bất động; đến khi Mục-kiền-liên quay về thì Xá-lợi-phất đã đến trước.[73] Mục-kiền-liên bèn thừa nhận sức thần thông không bằng sức trí tuệ.[75]
Các văn bản đều đồng thuận: Xá-lợi-phất viên tịch trước Phật và thường ghi xảy ra tại quê nhà.[69][76] Chú giải Pāli kể, từ định xuất lên, ông quán thấy các đệ tử thượng thủ sẽnhập Niết Bàn trước Phật, biết mình còn bảy ngày thọ mạng.[69][77] Ông về quê giáo hóa mẹ - người chưa quy y - rồi an nhiên viên tịch vào rằm thángKartika, trước Phật vài tháng.[69] Truyền thống Mūlasarvāstivāda nói ông chủ động nhập Niết Bàn vì không muốn chứng kiến Phật nhập diệt; có bản cho biết một phần do Mục-kiền-liên bị hành hung trọng thương nên định nhập Niết Bàn, ông vì thế quyết ý.[69][78]Thuyết nhất thiết hữu bộ lại nói cả hai cùng tự nhậpparanirvana trong cùng ngày để khỏi thấy Phật nhập diệt.[79] Nhiều bản kể chư thiên đến đảnh lễ trước giờ ông viên tịch.[80][81]
Theo truyền thống Theravada, Phật thuyếtVi Diệu Pháp (Abhidharma) tạicõi trời Đao Lợi (tiếng Pali:Tāvatiṃsa) và mỗi ngày trở về trần tóm lược cho Xá-lợi-phất.[85]
Trong Tam tạng, Xá-lợi-phất thường được xem là người đóng vai trò nổi bật trong sự hình thành các văn bảnVi diệu pháp (Abhidharma). Hai tỳ-kheo học giảRewata Dhamma vàBhikkhu Bodhi mô tảAbhidharma như “một hệ thống hóa giáo pháp có tính trừu tượng và kỹ thuật cao”.[86] Theo truyền thốngTheravada,Abhidharma (“Thượng pháp”) được Phật thuyết chochư thiên trong thời gian an cư tạicõi trời Đao Lợi; mỗi ngày trở về trần tóm lược cho Xá-lợi-phất, người hệ thống hóa, truyền dạy cho đệ tử, rồi kết thànhVi diệu pháp Tạng.[85] Một số hệ pháiThuyết nhất thiết hữu bộ lại gán bảy bộ[note 5]Abhidharma cho các tác giả khác nhau: trong truyền thống Hán tạng Sarvāstivāda, Xá-lợi-phất chỉ được gán tác giảSangitiparyaya; trong truyền thống Sanskrit và Tạng tạng Sarvāstivāda, ông được gánPháp uẩn túc luận.[88] Truyền thống Vatsiputriya (một nhánh Sarvāstivāda) kể Xá-lợi-phất truyềnAbhidharma choLa-hầu-la, rồi đếnDuy-ma-cật, vị sáng lập hệ phái.[85] Vì vai trò ấy, trong truyền thống, ông được xem như thánh bổn mạng của các học giả Vi Diệu Pháp.[89]
Nhà tôn giáo học PhápAndré Migot cho rằngVi Diệu Pháp định hình không sớm hơn thờiA-dục vương, nên khó gán cho Xá-lợi-phất lịch sử - ít nhất với bản ta biết hiện nay.[90] Sử giaEdward J. Thomas định niên đại phát triển củaAbhidharma từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 1 CN.[91] Tuy nhiên, Migot cho rằng hẳn tồn tại một dạng “sơ lược” củaAbhidharma trong Phật giáo sơ kỳ, rồi dần phát triển thành hình thức hiện tại; ông dẫn “Mātṛkā Pitaka” trongCullavagga như tiền thân củaTạng Vi Diệu Pháp. TheoAshokavadana,Đại Ca-diếp đã tụngMātṛkā Pitaka tại kỳKết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất: ban đầu là bản tóm yếu, về sau phát triển chiều kích siêu hình để thànhAbhidharma.[92] Thomas cũng cho rằngAbhidharma bồi đắp trên cơ sở sẵn có - có thể là các phương thức thảo luận nguyên lý giáo pháp - và các bộ phái khác nhau biên soạnAbhidharma riêng nhưng dựa trên nguồn chung.[93]
Xá-lợi-phất hiện diện dày đặc trongKinh điển Đại thừa - khi thì thỉnh Phật thuyết, khi trực tiếp đối thoại.[94] Migot nhận xét đây là điều đáng chú ý vì đa số các đệ tử lớn khác lại vắng bóng trong thể loại này; ông cho rằng tầm quan trọng của Xá-lợi-phất trong hệ phái Duy-ma-cật sơ kỳ là một lý do.[95][96] NếuTạng Pāli thường khắc họa Xá-lợi-phất nhưA-la-hán trí tuệ và thần lực, chỉ dưới Phật, thì các kinhĐại thừa lại dành cho ông nhiều vai: có kinh ca ngợi như đệ tử lớn, có kinh dùng ông làm đối chứng chưa thấu hiểu giáo nghĩa Đại thừa, đại diệnTiểu thừa.[97][98][99]Donald S. Lopez Jr. gọi đó là lối “mỉa mai có chủ ý”: nhấn mạnh chiều sâu Đại thừa bằng cách cho thấy ngay cả bậc trí tuệ nhất của “Tiểu thừa” cũng khó nắm bắt.[94]
TrongDuy-ma-cật sở thuyết kinh, Xá-lợi-phất được khắc họa là chưa thấu triệt các giáo lýĐại thừa nhưbất nhị vàtánh Không.[97] Một thiên nữ đang ngheDuy-ma-cật thuyết pháp rải hoa rơi lên y Xá-lợi-phất;[100] vì sợ phạm giới (cấm trang sức bằng hoa), ông định phủi mà không được.[97] Thiên nữ trách ông còn chấp nhị nguyên “hợp lệ/không hợp lệ”.[97][100] Khi ông hỏi “đã cao thế, sao không đổi thân nữ?”, phản ánh định kiến đương thời, thiên nữ liền đổi thân với ông để cho thấy nam/nữ chỉ là giả danh - theo Đại thừa, vạn pháp đều không, nam nữ rốt ráo bất khả đắc.[97][100]
Trong cácBát-nhã-ba-la-mật-đa, Xá-lợi-phất thường được đặt trong tương quan với nghĩa rốt ráo củaprajñāpāramitā.[101]Tiểu phẩm bát-nhã mô tả ông chưa hiểuBát-nhã-ba-la-mật-đa và phải doTu-bồ-đề chỉ dạy.[97]Edward Conze cho rằng ông còn vướng nhị nguyên nên không nắm nghĩa chân thực củaprajñāpāramitā.[102] TrongĐại Bát-nhã Ba-la-mật-đa kinh, Xá-lợi-phất là một trong các nhân vật đối thoại chính - hỏi và được giảng.[103] Conze nói dù trí tuệ lớn, ông vẫn phải được chỉ dạy vì giáo nghĩaprajñāpāramitā quá sâu.[104] Chú giảiĐại trí độ luận cho biết Xá-lợi-phất từng tuBồ-tát đạo trong quá khứ nhưng bỏ dở, chuyển sangThanh văn thừa sau khi móc mắt bố thí cho người ăn xin rồi ném xuống đất.[97]
Douglas Osto cho rằng việc ông bị “đối vị” trongBát-nhã-ba-la-mật-đa liên quan đếnVi Diệu Pháp, bộ môn xemcác pháp là thực tại tối hậu - trái với cốt lõiprajñāpāramitā dạy mọipháp đều không; vì vậy Xá-lợi-phất thành đối chứng lý tưởng.[101]
Tranh Nhật Bản vềPháp hoa - nơi Xá-lợi-phất thỉnh Phật thuyết.
TrongTâm kinh, lời dạy hướng đến Xá-lợi-phất: ông nêu câu hỏi vớiQuán Thế Âm về phép tutrí tuệ,[105] và phần trả lời hợp thành thân kinh;[106] kết thúc, Phật ấn khả, đại chúng hoan hỷ.[107] ỞKinh Pháp hoa, Phật nói về trí tuệ siêu việt củachư Phật vàphương tiện thiện xảo, khiến cácA-la-hán bối rối;[108] Xá-lợi-phất liền thỉnh Phật giảng rõ vì lợi ích chúng sinh, mở đầu choPháp hoa.[109] Sau đó, Phật dạy ông từng tuBồ-tát đạo trong quá khứ nhưng quên, nên đời này theo đườngThanh văn;[110] và Phật thọ ký ông sẽ thành Phật hiệuPadmaprabha (Hoa Quang).[97][111] Trong danh sách cácA-la-hán lớn ở đầuKinh Đại A Di Đà, ông đứng thứ mười lăm; còn ởKinh A Di Đà, ông đứng đầu.[112]
Một trong cácstupa tạiSanchi, nơi khai quật được xá-lợi của Śāriputra.
Huyền Trang (thế kỷ 7) ghi xá-lợi của Xá-lợi-phất và Maudgalyāyana được thờ ởMathura trong cácstupa doA-dục vương dựng.[113] Đến năm 1999 chưa có báo cáo khảo cổ xác nhận ở những địa điểm nêu trong ký sự hay kinh điển, dù xá-lợi đã được phát hiện ở nơi khác.[114]
Năm 1851,Alexander Cunningham và trung úy Fred. C. Maisey khai quật mộtstupa ởSanchi và phát hiện hai hộp sa thạch chứa mảnh xương, khắc tên Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên bằngBrāhmī.[115][116] Hộp của Śāriputra có mảnhgỗ đàn hương - Cunningham cho là phần củagiàn hỏa táng.[117] Hộp Xá-lợi-phất đặt phía nam, hộp Mục-kiền-liên phía bắc.[118] Cunningham lý giải người Ấn cổ khi hành lễ quay mặt về đông: “đông” (para) là “trước mặt”, “nam” (dakṣiṇa) là “bên phải”, “bắc” (vāma) là “bên trái”; vị trí hai hộp tượng trưng chỗ ngồi truyền thống của hai vị bên phải/trái Phật.[56] Cách giải thích khác: giả định Phật ngồi hướng đông, thì bên nam là tay phải, bên bắc là tay trái.[119] Khai quật tiếp tại cácstupa ởSatdhāra (gần đó), Cunningham và Maisey lại tìm được một cặp hộp khắc tên hai đệ tử thượng thủ.[115] Cunningham kết luận: sau khi hai vị viên tịch, xá-lợi vốn thờ gần Vương Xá; đến thời A Dục, xá-lợi được phân phối lại khắp Ấn Độ.[120] Một giả thuyết khác: có thể một vuaSunga đã làm việc phân phối tương tự đối với xá-lợi của Phật và các đại đệ tử, xây cácstupa như ở Sanchi để thờ.[121]
Bản vẽ của Cunningham về các hộp xá-lợi ở Sanchi gán cho hai đệ tử thượng thủ.
Sau đó Cunningham và Maisey chia hiện vật: Maisey mang bộ Satdhāra sang Anh, choBảo tàng Victoria and Albert mượn năm 1866,[122][123] bảo tàng mua lại năm 1921 từ con trai ông.[122] Cunningham đưa phần của mình trên hai tàu; một chiếc bị đắm, nên xá-lợi Sanchi được cho là đã mất.[122][124] Tuy nhiên,Torkel Brekke cho rằng thực ra Maisey mang cả hai bộ, nên xá-lợi Sanchi cũng sang Anh cùng Satdhāra.[123] Đầu thế kỷ 20, các tổ chức Phật giáo ở Ấn Độ và Miến Điện vận động chính phủ Anh hoàn trả để phụng thờ đúng mức.[125] Dù Bảo tàng Victoria and Albert ban đầu phản đối, cuối cùng chính phủ Anh đồng ý vì lý do ngoại giao.[126] Năm 1947, xá-lợi được chuyển đếnSri Lanka và trưng bày tạm ởBảo tàng Colombo.[119][127] Năm 1949, xá-lợi được đưa đi triển lãm ở miền bắc Ấn Độ và nhiều vùng châu Á.[127] Năm 1950, xá-lợi sang Miến Điện; Thủ tướngU Nu xin Ấn Độ cho một phần, Thủ tướngJawaharlal Nehru đồng ý “cho mượn vĩnh viễn”; phần này an trí tạiKaba Aye Pagoda năm 1952.[128] Sri Lanka cũng nhận một phần - mang từ Sanchi năm 1952 - lưu tạiMaha Bodhi Society ở Sri Lanka.[129] Phần còn lại ở Ấn Độ được thờ tại Chethiyagiri Vihara (Sanchi), cũng từ năm 1952.[130]
Là đệ tử thượng thủ, Xá-lợi-phất có vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là trongTheravada.Reginald Ray xem ông là A-la-hán vĩ đại nhất trongKinh tạng Pali, giữ vị trí “gần như bậc Phật thứ hai”.[131] Có văn bản gọi ông “Vua của Pháp” (Sanskrit:Dharmarāja) - danh xưng thường dành cho Phật - và mô tả ông “chuyển bánh xe Pháp”, quyền năng vốn gắn với chư Phật.[132] Trong Kinh tạng Pali, ông là người thuyết chính của nhiềukinh, vì Phật đặt nhiều tin tưởng nơi khả năng hoằng pháp của ông.[133]Alex Wayman xem ông là mẫu mực của bốnphạm trú, và nhờ các đức hạnh này mà Phật giao ông lãnh đạo tăng đoàn.[133]
Trongnghệ thuật Phật giáo, ông thường được vẽ cùng Phật và Mục-kiền-liên: Xá-lợi-phất bên phải, Mục-kiền-liên bên trái.[10] Nyanaponika Thera giải rằng đây là biểu trưng vị trí họ khi còn tại thế - Xá-lợi-phất là “cánh tay phải” của Phật.[55] Trong Đại thừa, cách bố trí hai bên này đôi khi chuyển sang các cặp khác - nhưPhổ Hiền vàVăn-thù, hoặcA-nan vàĐại Ca-diếp.[134] Ở Miến Điện, Xá-lợi-phất được tin ban trí tuệ cho người lễ bái và là một trong tám A-la-hán thường được cầu nguyện trong nghi thức hộ trì.[135]
Xá-lợi-phất tiêu biểu cho học thuật và đời sống tu viện định cư - khác với truyền thống rừng gắn với nhiềumười đại đệ tử.[131] Ray mô tả ông như mẫu hình “thánh Phật giáo” hiện thân lý tưởng của Phật giáo Nam truyền phát triển ở cổKosambi.[136] Tuy vậy, một số văn bản Pali nhưUdāna,Theragāthā lại khắc họa ông như thánh nhân rừng. Ray kết luận: ít nhất có hai truyền thống về ông trong Pali - rừng và học thuật.[137] Migot nhận diện nhóm văn bản không nêu tính học giả là sớm hơn, và lập luận vị Xá-lợi-phất lịch sử có thể khác hình tượng trong Kinh tạng Pali: ban đầu ông được tôn kính như thánh nhân ở vùng Kosambi; pháiThượng tọa bộ sơ kỳ sau đó nhấn mạnh phương diện học thuật phù hợp giá trị địa phương.[67][138] Ray cho rằng dù có thể tính học thuật là yếu tố thêm sau, chưa đủ bằng chứng dứt khoát.[139]
^Sankalia, Hasmukhlal Dhirajlal (1972).The University of Nalanda (bằng tiếng Anh). Oriental Publishers.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
^Purātattva (bằng tiếng Anh). Indian Archaeological Society. 2006. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.
^East and West (bằng tiếng Anh). Instituto italiano per il Medio ed Estremo Oriente. 1988.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
^Lamotte, E. (1947). "La légende du Buddha" [The legend of the Buddha].Revue de l'histoire des religions (bằng tiếng Pháp).134 (1–3):65–6.doi:10.3406/rhr.1947.5599.
Buswell, Robert E. Jr. (2004),Encyclopedia of Buddhism(PDF), New York, NY: Macmillan Reference, USA,ISBN0-02-865718-7,Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2018, truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2020
Lopez, Donald S. (2016),The Lotus Sūtra : a biography, Princeton University Press,ISBN978-0-691-15220-2
Mahathera, Naranda (1998),The Buddha and His Teachings(PDF), Taiwan: Buddha Dharma Education Association Inc,lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 26 tháng 8 năm 2018, truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019
Maha Thera Tripitakavagisvaracarya, Walpola Sri Rahula (1892),The Maha Bodhi (bằng tiếng Anh), Maha-Bodhi Society.
Silk, Jonathan A. (2019),Brill's encyclopedia of Buddhism Vol Two, Hinüber, Oskar von,, Eltschinger, Vincent,, Bowring, Richard, 1947-, Radich, Michael, Leiden,ISBN978-90-04-29937-5,OCLC909251257{{Chú thích}}: Quản lý CS1: địa điểm thiếu nhà xuất bản (liên kết)