Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Xá-lợi-phất

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài này viết về vị đệ tử của Phật. Đối với vị tăng thế kỷ 15, xemŚāriputra (thế kỷ 15). Đối với vị tăng học giả người Sri Lanka thế kỷ 12 của Phật giáo Theravāda, xemSāriputta (thế kỷ 12).
Đệ tử hàng đầu của PhậtBản mẫu:SHORTDESC:Đệ tử hàng đầu của Phật
Xá-lợi-phất
Śāriputra
Tượng Śāriputra, Trung Quốc thờiThanh, thế kỷ 17
Tôn giáoPhật giáo
Pháp danhXá-lợi-phất
Śāriputra
Cá nhân
SinhƯu-bà-đề-sa
Upatiṣya (Pali:Upatissa)
Thế kỷ 6-5 TCN
Nālaka hoặc làng Upatiṣya,Vương Xá,Ma-kiệt-đà
MấtThế kỷ 6-5 TCN
Nālaka hoặc làng Upatiṣya,Vương Xá,Ma-kiệt-đà
Chức vụ
Chức danh
Dhammasenapati (Tổng chỉ huy của Pháp)

Paṭhamasāvaka (Đệ tử trưởng thứ nhất)

Dakkhinasāvaka (Đệ tử trưởng bên phải)

Hoạt động tôn giáo
Sư phụPhật Thích-ca Mâu-ni
Bản chuyển ngữ của
Śāriputra
Tiếng Phạnशारिपुत्र
Śāriputra
Tiếng PaliSāriputta
Tiếng Trung Quốc舎利弗; 舎利子
(Bính âm Hán ngữShèlìfú; Shèlìzi)
Tiếng Nhật舎利弗しゃりほつ;舎利子しゃりし
(rōmaji:Sharihotsu; Sharishi)
Tiếng Khmerសារីបុត្រ
(UNGEGN: sareibŏt)
Tiếng Hàn사리불; 사리자
(Romaja quốc ngữ:Saribul; Sarija)
Tiếng Sinhalaශාරිපුත්ර (śāriputra)
සැරියුත් (særiyut)
Tiếng Tạng tiêu chuẩnཤཱ་རིའི་བུ་
(Wylie: shA ri'i bu)
(THL: sha ri bu
)
Tiếng Tháiสารีบุตร
(RTGSSaribut)
Tiếng ViệtXá Lợi Phất
Xá Lợi Tử
Thuật ngữ Phật Giáo
Chuyên đề
Phật giáo
iconCổng thông tin Phật giáo

Xá-lợi-phất (Śāriputra; tiếng Pali:Sāriputta,chữ Hán: 舍利弗; tên khai sinhUpatiṣya - tiếng Pali:Upatissa) là một trongnhững đệ tử xuất chúng nhất củaPhật. Ông cùngMục-kiền-liên (tiếng Pali:Moggallāna) được tôn làm haiđệ tử nam thượng thủ của Phật; riêng Xá-lợi-phất đứng đầu về trí tuệ. Trong giáo đoàn, ông nhiều lần đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo; trong nhiều truyền thống Phật giáo, ông còn được xem là nhân vật then chốt trong sự hình thànhVi Diệu Pháp (Abhidharma). Xá-lợi-phất cũng xuất hiện thường xuyên trongkinh điển Đại thừa, và ở một số kinh còn được đặt làm đối chứng đại diện cho truyền thốngTiểu thừa.

Các sử gia cho rằng Xá-lợi-phất sinh ở vương quốc cổMa-kiệt-đà vào khoảng thế kỷ 6-5 TCN. Theo kinh điển Phật giáo, ông và Mục-kiền-liên là bạn nối khố, cùng xuất gia cầu đạo. Sau thời gian theo học các thầy đương thời, hai người gặp giáo pháp của Phật, thọ giới làm tỳ-kheo trongTăng đoàn và được tuyên bố là hai đệ tử thượng thủ; riêng Xá-lợi-phất chứng quảA-la-hán sau khi thọ giới hai tuần. Với cương vị đệ nhất thượng thủ, ông phụ Phật điều hànhTăng đoàn - chăm sóc chư tăng, phân công đề mục thiền quán, làm sáng tỏ nhiều điểm giáo nghĩa - và là đệ tử đầu tiên được Phật ủy quyền truyền giới cho người khác. Xá-lợi-phất viên tịch ngay trước Phật tại quê nhà, được hỏa táng. Theo kinh điển,Kỳ Viên từng tôn thờ xá-lợi của ông; phát hiện khảo cổ từ thế kỷ 19 gợi rằng xá-lợi có thể đã được các triều vua đời sau phân bổ khắp tiểu lục địa Ấn Độ.

Trong truyền thốngTheravada, Xá-lợi-phất được kính xưng là bậc đệ tử thượng thủ có trí tuệ bậc nhất, vị trí chỉ sau Phật. Trongnghệ thuật Phật giáo, ông thường đứng bên phải Phật. Sự nghiêm trìgiới luật, trí tuệ và khả năng hoằng pháp đem lại cho ông danh hiệu “Tướng quân của Pháp” (Sanskrit:Dharmasenāpati; Pali:Dhammasenāpati). Đệ tử nữ tương ứng phía Ni của Phật làKṣemā (Pali:Khemā).

Bối cảnh

[sửa |sửa mã nguồn]

Theokinh điển Phật giáo, mỗi khi mộtbậc Giác ngộ xuất hiện thì cũng có một cặp đệ tử thượng thủ đi cùng.[1] VớiPhật Thích-ca Mâu-ni, hai đệ tử nam thượng thủ là Xá-lợi-phất vàMục-kiền-liên; bên Ni làKhemaUppalavanna.[2][3]Buddhavaṃsa cũng cho biết các Phật quá khứ đều theo khuôn này: luôn có đôi đệ tử nam và đôi đệ tử ni thượng thủ.[4] Tỳ-kheo học giảNyanaponika Thera lý giải, việc có “cặp” giúp phân bổ trách nhiệm theo sở trường của mỗi vị.[5]

Kinh điển Pāli kể rằng trong quá khứ xa xưa, Xá-lợi-phất từng là một người giàu tên Sarada, xả tài sản vào rừng tu và có nhiều đồ chúng. Khi Phật quá khứ Cao Kiến (Anomadassi) đến thuyết pháp cùng hai đệ tử thượng thủ, nghe vị thượng thủ đầu là Nisabha giảng, Sarada phátnguyện sẽ làm đệ tử thượng thủ thứ nhất của một vị Phật tương lai; nguyện này được chính Phật Anomadassī thọ ký. Sarada sau đó khuyên bạn thân Sirivaddhana phát nguyện làm đệ tử thượng thủ thứ hai; Sirivaddhana cũng được thọ ký.[6] Hai người tiếp tục tạo nhiều công đức trong đời ấy và nhiều đời sau.[7] Theo truyền thuyết, lời nguyện thành tựu ở thời Phật Thích-ca: Sarada tái sinh thành Xá-lợi-phất, còn Sirivaddhana thành Mục-kiền-liên.[6][7]

Tiểu sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Thuở đầu

[sửa |sửa mã nguồn]
Mộtstupa thờ Śāriputra tại tu viện cổNalanda. Nyanaponika Thera cho rằng Nalanda có lẽ gần nơi Xá-lợi-phất sinh và mất.[8]

Kinh sách mô tả Xá-lợi-phất - tên khai sinh Upatiṣya (Pali:Upatissa) - sinh trong một gia đình giàu có ở một làng gầnRājagaha (Vương Xá) thuộcMa-kiệt-đà.[9][10][11] Theo truyền thốngCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, tên ông lấy theo tên cha; còn chú giảiPali củaTheravada nói đặt theo tên làng.[10][note 1] Du tăng Trung HoaPháp Hiển gọi làng ấy là Nāla (Nālaka),[12] cònHuyền Trang gọi là Kālapināka.[13] Vị trí cụ thể được xác định theo nhiều giả thiết: nay là Sarichak,[14] Chandiman (Chandimau),[15] hoặc Nanan (được đa số xem là khả dĩ nhất).[16][17]

Upatiṣya được mô tả là có “nước da vàng”.[18][19] Ông có sáu anh chị em: ba em trai Upasena, Cunda, Revata; ba em gái Cāla, Upacālā, Sīsupacālā - về sau đều trở thànhA-la-hán.[20][21] Theo truyền thống Pali, cha ông là Vangunta; theoCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, cha tên Tiṣya (Pali:Tissa).[10] Mẹ ông là Śārī (còn gọi Rūpaśārī, Śārika, hoặc Śāradvatī) - vì “đôi mắt như chim śārika”; do mẹ mà ông được gọi là Śāriputra (“con của Śāri”), đôi khi là Śāradvatīputra (“con của Śāradvatī”).[22][23]

Upatiṣya sinh cùng ngày với Kolita (về sau làMục-kiền-liên), một cậu bé ở làng bên; hai gia đình kết thân bảy đời, nên hai người thành bạn tri kỷ.[24][9][25] Cả hai đều được giáo dục kỹ lưỡng vềVệ-đà và mỗi người có một nhóm thanh niên đi theo. Trong một lễ hội ở Rājagaha, ý thức về vô thường trỗi dậy, thôi thúc họ phát khởitâm khẩn thiết cầu đạo.[20][26]

Thấy sự mong manh của đời sống vật chất, họ cùng xuất gia làm ẩn sĩ để tìm con đường chấm dứtluân hồi. TheoCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, hai người đã tìm đến cảSáu vị thầy lớn nhưng không thấy con đường đúng.[20] Theo văn bản Pali, họ cùng đồ chúng trở thành đệ tử của ẩn sĩSañjaya Vairatiputra (Pali:Sañjaya Belaṭṭhaputta) gần đó.[20][27] Pali mô tả Sañjaya theo khuynh hướnghoài nghi; cuối cùng Upatiṣya và Kolita rời đi.[20][28] Ngược lại,Đại tạng kinh Trung HoaĐại tạng kinh Tây Tạng lại mô tả ông là vị thầy trí tuệ cóthiên nhãn thiền định, về sau lâm bệnh qua đời; một số nguồn còn nói ông đã tiên tri sự xuất hiện của Phật.[29][30] Không đạt điều mong cầu, hai người tạm chia tay và hẹn: ai gặp con đường đếnNiết Bàn sẽ báo cho người kia.[20][31][32]

Gặp Phật

[sửa |sửa mã nguồn]
Chạm ngà mô tả Śāriputra và Maudgalyāyana trở thành đệ tử của Phật

Rời Sañjaya, Upatiṣya gặp tỳ-kheoA-thuyết-thị (tiếng Pali:Assaji), một trong nămA-la-hán đầu tiên. Ấn tượng trước phong thái an tĩnh, ông xin thỉnh pháp.[33] A-thuyết-thị nói mình mới thọ giới không lâu nhưng sẽ nói phần mình biết, rồi tụng bàikệ Duyên sinh nổi tiếng:[34]

Vạn vật từ duyên khởi,

Bậc Giác Ngộ từng thuyết;

Và rồi từ duyên diệt,

Đại Đạo Sư đã truyền.


— 

Bài kệ này được khắc trên nhiều tượng Phật và truyền tụng trong thế giới Phật giáo.[35] Triết giaPaul Carus cho rằng kệ từ bỏ ý niệm “can thiệp thần thánh” vốn phổ biến trongBà-la-môn cổ đại, khẳng định mọi pháp sinh và diệt đều do nhân duyên.[36]

Nghe xong, Upatiṣya chứngtu-đà-hoàn, bậc đầu củabốn thánh quả.[34] Ông về kể lại cho Kolita; khi nghe tụng lại bài kệ, Kolita cũng chứngtu-đà-hoàn.[32][37][note 2] Hai người, cùng nhiều đệ tử của Sañjaya, đếnTinh xá Trúc Lâm xin yết kiến vàthọ giới tỳ-kheo dưới Phật; hôm ấy tất cả đều chứngA-la-hán trừ Upatiṣya và Kolita.[32][39][40] Nyanaponika Thera giải thích hai vị cần chuẩn bị lâu hơn để đảm nhận vai trò thượng thủ.[41] Một số văn bản mô tả lễ thọ giới có yếu tố kỳ diệu - y phục tự biến thành ca-sa, tóc tự rụng.[40] Từ đây Upatiṣya được gọi là Xá-lợi-phất (Pali:Sāriputta), còn Kolita là Mục-kiền-liên (Pali:Moggallāna).[41]

Tượng Xá-lợi-phất tạiMahamevnawa Buddhist Monastery,Sri Lanka

Ngay sau khi hai vị thọ giới, Phật tuyên bố họ là hai đệ tử thượng thủ (Pali:aggasavaka), theo truyền thống các Phật quá khứ.[32][42][43] Vì họ mới thọ giới nên một số tỳ-kheo thấy chạnh lòng; Phật giải thích rằng trao vai trò ấy vì cả hai đãphát nguyện từ nhiều đời.[7][44] Mục-kiền-liên chứngA-la-hán bảy ngày sau nhờ tu thiền miên mật; Xá-lợi-phất chứngA-la-hán sau hai tuần, khi đang quạt cho Phật thuyếtKinh Quán Thọ (Vedanāpariggaha Sutta) cho một du sĩ.[32][45] Pali nói người du sĩ là cháu Xá-lợi-phất; bản Trung Hoa, Tạng, Sanskrit lại ghi là cậu. TheoAtthakatha, Xá-lợi-phất cần thời gian lâu hơn vì tri kiến của vị đệ nhất thượng thủ phải toàn diện hơn.[46]

Chú giải kinh Pháp Cú (Dhammapada) kể rằng sau khi thọ giới, Xá-lợi-phất giữ lòng tri ân sâu sắc với trưởng lão A-thuyết-thị suốt đời. Bất cứ khi nào họ sống chung tại một tu viện, Xá-lợi-phất luôn đảnh lễ A-thuyết-thị ngay sau khi đảnh lễ Phật, vì ông nghĩ: "Vị trưởng lão này là thầy đầu tiên của tôi. Nhờ ông mà tôi đến được với giáo pháp của Phật."[47] Khi A-thuyết-thị trú tại tu viện khác, Xá-lợi-phất dùngthiên nhãn quan sát hướng mà vị trưởng lão đang ở, rồi đảnh lễ về hướng đó bằng cách chạm đất năm điểm (đầu, hai tay, hai chân) và chắp tay cung kính; khi nằm nghỉ, ông đặt đầu về phía ấy để tỏ lòng tôn kính.[48][49] Thấy vậy, các tỳ-kheo nghi ngờ báo với Phật rằng Xá-lợi-phất vẫn "thờ các phương trời" như tập tụcBà-la-môn giáo. Phật giải thích rằng ông đang tỏ lòng kính trọng người thầy đầu tiên đã dẫn ông đến với Chánh pháp, chứ không phải thờ phương trời.[50][47] Nhân đó, Phật thuyết Kinh Mới (Nava Sutta) trongSutta-Nipata, mở đầu bằng ý: "Như chư thiên đảnh lễĐế Thích, con người cũng nên tôn kính người mà từ đó mình học được Chánh pháp."[47]

Đệ nhất thượng thủ

[sửa |sửa mã nguồn]
Tượng Xá-lợi-phất tạiBodh Gaya.

Xá-lợi-phất là đệ nhất thượng thủ của Phật, bậc nhất về trí tuệ - danh hiệu ông cùng ni sưKṣemā (Pali:Khemā) chia sẻ.[51] Ông giữ vai trò cặp “đệ tử thượng thủ - bạn đồng hành thù thắng” (Pali:sāvakayugaṁ aggaṁ bhaddayugaṁ) với Mục-kiền-liên nhưMahāpadāna Sutta mô tả.[52]Mahāvagga cho biết hai vị lần lượt bậc nhất về trí tuệ vàthần thông.[53] Văn bản kể không ai ngoài Mục-kiền-liên trả lời được những câu hỏi dành cho ông; ngược lại, Mục-kiền-liên cũng không giải được những câu chỉ Xá-lợi-phất có thể.[54] Truyền thống ghi Xá-lợi-phất ngồi bên tay phải Phật, Mục-kiền-liên bên trái; hình tượng hai vị được xem như “hai cánh tay” của Phật.[5][55][56]

Với vai trò ấy, Xá-lợi-phất thường hệ thống hóa và phân tích giáo pháp.[5] Kinh tạng ghi ông thường hỏi Phật, thỉnh pháp và tự mình làm rõ các điểm, chất vấn đệ tử - nhiều khi như để khảo nghiệm tri kiến.[57][58] Không ít lần Phật nêu đề tài rồi để ông khai triển.[59] Trong hai kinh thuộcTam Tạng -Kinh Thập Thượng (Dasuttara Sutta) vàKinh Phúng Tụng (Saṅgīti Sutta) - Phật bảo nghỉ lưng, để Xá-lợi-phất thuyết thay, còn ngồi nghe giữa đại chúng.[32][54][60] Khả năng thuyết pháp khiến ông được tôn là “Tướng quân của Pháp” (Dharmasenapati).[32][54][59] Tuy vậy, kinh cũng ghi vài lần ông bị Phật quở trách: trongCatuma Sutta, khi nhóm tỳ-kheo trẻ ồn ào bị đuổi đi, Phật nhắc lẽ ra hai vị thượng thủ phải chủ động trông nom tăng chúng - điều Mục-kiền-liên hiểu mà Xá-lợi-phất chưa suy ra.[61] Một lần khác, Phật quở vì ông hướng dẫn Bà-la-môn Dhanañjani theo cách sinh về cõiPhạm thiên thay vì con đường đưa tới giải thoát.[54][62]

Xá-lợi-phất còn gánh vác nhiều công việcTăng đoàn: thay Phật thăm nom tỳ-kheo bệnh, viếng thăm cư sĩ sắp qua đời, v.v.[54] Có khi Phật dạy nhóm tỳ-kheo trước lúc đi đâu phải xin phép Xá-lợi-phất.[54] Ông là đệ tử đầu tiên được giao truyềngiới cụ túc, kể cả truyền giới choLa-hầu-la, con trai Phật.[63] Trong huấn luyện, ông chu đáo cả vật chất lẫn tinh thần, đồng thời phân công đề mục thiền quán.[64]Saccavibhanga Sutta ví ông như người mẹ sinh con, còn Mục-kiền-liên như người vú nuôi: Xá-lợi-phất đưa đệ tử đến bậcnhập lưu, Mục-kiền-liên dìu tiếp lênA-la-hán.[59][64][note 3] Dẫu vậy, Nyanaponika Thera cũng ghi nhiều trường hợp Xá-lợi-phất đưa đệ tử đạt cácbậc cao hơn.[66]

Con người

[sửa |sửa mã nguồn]

Kinh sách mô tả Xá-lợi-phất hăng hái tranh luận, hóa độngoại đạo - một đặc quyền lớn của ông.[67] TheoCăn bản thuyết nhất thiết hữu bộ, khisáu đạo sư ngoại đạo thách thức, Phật cử Xá-lợi-phất ứng chiến. Mūlasarvāstivāda kể ông dùng thần thông tạo bão, hóa hiện nhiều thân, hàng phục các đạo sư, khiến dânXá-vệ quy y.[68] KhiĐề-bà-đạt-đa gâychia rẽ và kéo theo một số tỳ-kheo, Xá-lợi-phất đóng vai trò chính trong việc thống hợp Tăng đoàn: ông và Mục-kiền-liên giả vờ theo phe Đề-bà-đạt-đa; nhân khi ông này “đau lưng” nhờ Xá-lợi-phất thuyết thay rồi ngủ quên, hai vị đưa đồ chúng trở về với Phật.[69][63]

Tượng mạ vàng Xá-lợi-phất từ Miến Điện.

Nhiều văn bản quy công Xá-lợi-phất trong việc hình thànhgiới luật Tăng: chính ông thỉnh Phật chế giới; Phật đáp “đến đúng thời sẽ chế”.[54] Ông nổi tiếng cẩn trọng, trì giới mực thước: có chuyện ông mắc bệnh có thể chữa bằng tỏi nhưng không dùng vì Phật đã chế giới cấm; chỉ sau khi Phật rút giới mới dùng.[54][59] Lần khác, thấy bánh ngọt khiến tham ăn, ông phát nguyện kiêng.[59] Một chú giải kể khi chư tăng đi khất thực, ông tỉ mỉ dọn dẹp tu viện để ngoại đạo không có cớ chê bai.[59] Một số văn bản nói ông từng sinh làm rắn ở đời trước nên đôi lúc cứng rắn: trongĐại chúng bộ, Phật phạt ông đứng nắng vì không ngăn tỳ-kheo phát ngôn sai; trongHóa địa bộ, ông kiên quyết không ăn một loại quả - dù là thuốc - sau khi bị nghi lén ăn ngon; Phật cũng dẫn chuyện “đời rắn” để giải thích.[70]

Dù Mục-kiền-liên bậc nhất thần thông, nhiều văn bản vẫn ghi Xá-lợi-phất cũng hiện thần thông: bay, thăm các cõi, có túc mạng minh, thiên nhãn - những năng lực thường thấy nơiA-la-hán.[71] Có chuyện mộtdạ xoa đánh đầu khi ông đang thiền; hỏi thăm, ông nói không hề nhận ra, chỉ hơi nhức đầu.[59] Mục-kiền-liên khen sức nhẫn chịu nhờ định lực;Patisambhidamagga nêu ông như ví dụ “thần thông do sức định can thiệp” (Pali:samādhivipphāra-iddhi).[72] Mūlasarvāstivāda kể Xá-lợi-phất và Maudgalyāyana xuốngđịa ngục Vô Gián báo lời thọ ký rằngĐề-bà-đạt-đa sẽ thành Độc giác Phật (pratyekabuddha).[73] Khi ấy Mục-kiền-liên làm mưa giảm khổ nhưng mưa tan; Xá-lợi-phất dùng định dựa trên trí để tạo mưa bền hơn.[74] Một bản khác kể Phật sai Mục-kiền-liên đi gọi Xá-lợi-phất đang may vá; khi ông nói sẽ đi sau khi khâu xong, Mục-kiền-liên dùng thần thông rung đất giục đi mà Xá-lợi-phất vẫn bất động; đến khi Mục-kiền-liên quay về thì Xá-lợi-phất đã đến trước.[73] Mục-kiền-liên bèn thừa nhận sức thần thông không bằng sức trí tuệ.[75]

Cảnh Xá-lợi-phất viên tịch,Bảo tàng Quốc gia Bangkok.

Viên tịch

[sửa |sửa mã nguồn]

Các văn bản đều đồng thuận: Xá-lợi-phất viên tịch trước Phật và thường ghi xảy ra tại quê nhà.[69][76] Chú giải Pāli kể, từ định xuất lên, ông quán thấy các đệ tử thượng thủ sẽnhập Niết Bàn trước Phật, biết mình còn bảy ngày thọ mạng.[69][77] Ông về quê giáo hóa mẹ - người chưa quy y - rồi an nhiên viên tịch vào rằm thángKartika, trước Phật vài tháng.[69] Truyền thống Mūlasarvāstivāda nói ông chủ động nhập Niết Bàn vì không muốn chứng kiến Phật nhập diệt; có bản cho biết một phần do Mục-kiền-liên bị hành hung trọng thương nên định nhập Niết Bàn, ông vì thế quyết ý.[69][78]Thuyết nhất thiết hữu bộ lại nói cả hai cùng tự nhậpparanirvana trong cùng ngày để khỏi thấy Phật nhập diệt.[79] Nhiều bản kể chư thiên đến đảnh lễ trước giờ ông viên tịch.[80][81]

Tang lễ cử hành ởVương Xá; nhục thân được hỏa táng. Thị giả Cunda rước xá-lợi về dâng Phật tạiXá-vệ.[82] TrongAnupada Sutta (Kinh Bất Đoạn), Phật đọc điếu văn tán dương trí tuệ, đức hạnh của ông.[59][83]Dighanikaya chép Phật an trí xá-lợi trong mộttháp xá lợi tạiKỳ Viên. Theo Mūlasarvāstivāda, xá-lợi được trao cho cư sĩCấp Cô Độc, chính ông dựngbảo tháp để thờ ở Kỳ Viên.[82][note 4]

Vi Diệu Pháp

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Abhidharma
Theo truyền thống Theravada, Phật thuyếtVi Diệu Pháp (Abhidharma) tạicõi trời Đao Lợi (tiếng Pali:Tāvatiṃsa) và mỗi ngày trở về trần tóm lược cho Xá-lợi-phất.[85]

Trong Tam tạng, Xá-lợi-phất thường được xem là người đóng vai trò nổi bật trong sự hình thành các văn bảnVi diệu pháp (Abhidharma). Hai tỳ-kheo học giảRewata DhammaBhikkhu Bodhi mô tảAbhidharma như “một hệ thống hóa giáo pháp có tính trừu tượng và kỹ thuật cao”.[86] Theo truyền thốngTheravada,Abhidharma (“Thượng pháp”) được Phật thuyết chochư thiên trong thời gian an cư tạicõi trời Đao Lợi; mỗi ngày trở về trần tóm lược cho Xá-lợi-phất, người hệ thống hóa, truyền dạy cho đệ tử, rồi kết thànhVi diệu pháp Tạng.[85] Một số hệ pháiThuyết nhất thiết hữu bộ lại gán bảy bộ[note 5]Abhidharma cho các tác giả khác nhau: trong truyền thống Hán tạng Sarvāstivāda, Xá-lợi-phất chỉ được gán tác giảSangitiparyaya; trong truyền thống Sanskrit và Tạng tạng Sarvāstivāda, ông được gánPháp uẩn túc luận.[88] Truyền thống Vatsiputriya (một nhánh Sarvāstivāda) kể Xá-lợi-phất truyềnAbhidharma choLa-hầu-la, rồi đếnDuy-ma-cật, vị sáng lập hệ phái.[85] Vì vai trò ấy, trong truyền thống, ông được xem như thánh bổn mạng của các học giả Vi Diệu Pháp.[89]

Nhà tôn giáo học PhápAndré Migot cho rằngVi Diệu Pháp định hình không sớm hơn thờiA-dục vương, nên khó gán cho Xá-lợi-phất lịch sử - ít nhất với bản ta biết hiện nay.[90] Sử giaEdward J. Thomas định niên đại phát triển củaAbhidharma từ thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 1 CN.[91] Tuy nhiên, Migot cho rằng hẳn tồn tại một dạng “sơ lược” củaAbhidharma trong Phật giáo sơ kỳ, rồi dần phát triển thành hình thức hiện tại; ông dẫn “Mātṛkā Pitaka” trongCullavagga như tiền thân củaTạng Vi Diệu Pháp. TheoAshokavadana,Đại Ca-diếp đã tụngMātṛkā Pitaka tại kỳKết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất: ban đầu là bản tóm yếu, về sau phát triển chiều kích siêu hình để thànhAbhidharma.[92] Thomas cũng cho rằngAbhidharma bồi đắp trên cơ sở sẵn có - có thể là các phương thức thảo luận nguyên lý giáo pháp - và các bộ phái khác nhau biên soạnAbhidharma riêng nhưng dựa trên nguồn chung.[93]

Trong các kinh Đại thừa

[sửa |sửa mã nguồn]
Bích họa Trung Hoa mô tả các sự kiện trongDuy-ma-cật sở thuyết kinh.

Xá-lợi-phất hiện diện dày đặc trongKinh điển Đại thừa - khi thì thỉnh Phật thuyết, khi trực tiếp đối thoại.[94] Migot nhận xét đây là điều đáng chú ý vì đa số các đệ tử lớn khác lại vắng bóng trong thể loại này; ông cho rằng tầm quan trọng của Xá-lợi-phất trong hệ phái Duy-ma-cật sơ kỳ là một lý do.[95][96] NếuTạng Pāli thường khắc họa Xá-lợi-phất nhưA-la-hán trí tuệ và thần lực, chỉ dưới Phật, thì các kinhĐại thừa lại dành cho ông nhiều vai: có kinh ca ngợi như đệ tử lớn, có kinh dùng ông làm đối chứng chưa thấu hiểu giáo nghĩa Đại thừa, đại diệnTiểu thừa.[97][98][99]Donald S. Lopez Jr. gọi đó là lối “mỉa mai có chủ ý”: nhấn mạnh chiều sâu Đại thừa bằng cách cho thấy ngay cả bậc trí tuệ nhất của “Tiểu thừa” cũng khó nắm bắt.[94]

Duy-ma-cật sở thuyết kinh

[sửa |sửa mã nguồn]

TrongDuy-ma-cật sở thuyết kinh, Xá-lợi-phất được khắc họa là chưa thấu triệt các giáo lýĐại thừa nhưbất nhịtánh Không.[97] Một thiên nữ đang ngheDuy-ma-cật thuyết pháp rải hoa rơi lên y Xá-lợi-phất;[100] vì sợ phạm giới (cấm trang sức bằng hoa), ông định phủi mà không được.[97] Thiên nữ trách ông còn chấp nhị nguyên “hợp lệ/không hợp lệ”.[97][100] Khi ông hỏi “đã cao thế, sao không đổi thân nữ?”, phản ánh định kiến đương thời, thiên nữ liền đổi thân với ông để cho thấy nam/nữ chỉ là giả danh - theo Đại thừa, vạn pháp đều không, nam nữ rốt ráo bất khả đắc.[97][100]

Các kinh Bát-nhã ba-la-mật

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong cácBát-nhã-ba-la-mật-đa, Xá-lợi-phất thường được đặt trong tương quan với nghĩa rốt ráo củaprajñāpāramitā.[101]Tiểu phẩm bát-nhã mô tả ông chưa hiểuBát-nhã-ba-la-mật-đa và phải doTu-bồ-đề chỉ dạy.[97]Edward Conze cho rằng ông còn vướng nhị nguyên nên không nắm nghĩa chân thực củaprajñāpāramitā.[102] TrongĐại Bát-nhã Ba-la-mật-đa kinh, Xá-lợi-phất là một trong các nhân vật đối thoại chính - hỏi và được giảng.[103] Conze nói dù trí tuệ lớn, ông vẫn phải được chỉ dạy vì giáo nghĩaprajñāpāramitā quá sâu.[104] Chú giảiĐại trí độ luận cho biết Xá-lợi-phất từng tuBồ-tát đạo trong quá khứ nhưng bỏ dở, chuyển sangThanh văn thừa sau khi móc mắt bố thí cho người ăn xin rồi ném xuống đất.[97]

Douglas Osto cho rằng việc ông bị “đối vị” trongBát-nhã-ba-la-mật-đa liên quan đếnVi Diệu Pháp, bộ môn xemcác pháp là thực tại tối hậu - trái với cốt lõiprajñāpāramitā dạy mọipháp đều không; vì vậy Xá-lợi-phất thành đối chứng lý tưởng.[101]

Các kinh Đại thừa khác

[sửa |sửa mã nguồn]
Tranh Nhật Bản vềPháp hoa - nơi Xá-lợi-phất thỉnh Phật thuyết.

TrongTâm kinh, lời dạy hướng đến Xá-lợi-phất: ông nêu câu hỏi vớiQuán Thế Âm về phép tutrí tuệ,[105] và phần trả lời hợp thành thân kinh;[106] kết thúc, Phật ấn khả, đại chúng hoan hỷ.[107]Kinh Pháp hoa, Phật nói về trí tuệ siêu việt củachư Phậtphương tiện thiện xảo, khiến cácA-la-hán bối rối;[108] Xá-lợi-phất liền thỉnh Phật giảng rõ vì lợi ích chúng sinh, mở đầu choPháp hoa.[109] Sau đó, Phật dạy ông từng tuBồ-tát đạo trong quá khứ nhưng quên, nên đời này theo đườngThanh văn;[110] và Phật thọ ký ông sẽ thành Phật hiệuPadmaprabha (Hoa Quang).[97][111] Trong danh sách cácA-la-hán lớn ở đầuKinh Đại A Di Đà, ông đứng thứ mười lăm; còn ởKinh A Di Đà, ông đứng đầu.[112]

Xá-lợi

[sửa |sửa mã nguồn]
Một trong cácstupa tạiSanchi, nơi khai quật được xá-lợi của Śāriputra.

Huyền Trang (thế kỷ 7) ghi xá-lợi của Xá-lợi-phất và Maudgalyāyana được thờ ởMathura trong cácstupa doA-dục vương dựng.[113] Đến năm 1999 chưa có báo cáo khảo cổ xác nhận ở những địa điểm nêu trong ký sự hay kinh điển, dù xá-lợi đã được phát hiện ở nơi khác.[114]

Năm 1851,Alexander Cunningham và trung úy Fred. C. Maisey khai quật mộtstupaSanchi và phát hiện hai hộp sa thạch chứa mảnh xương, khắc tên Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên bằngBrāhmī.[115][116] Hộp của Śāriputra có mảnhgỗ đàn hương - Cunningham cho là phần củagiàn hỏa táng.[117] Hộp Xá-lợi-phất đặt phía nam, hộp Mục-kiền-liên phía bắc.[118] Cunningham lý giải người Ấn cổ khi hành lễ quay mặt về đông: “đông” (para) là “trước mặt”, “nam” (dakṣiṇa) là “bên phải”, “bắc” (vāma) là “bên trái”; vị trí hai hộp tượng trưng chỗ ngồi truyền thống của hai vị bên phải/trái Phật.[56] Cách giải thích khác: giả định Phật ngồi hướng đông, thì bên nam là tay phải, bên bắc là tay trái.[119] Khai quật tiếp tại cácstupaSatdhāra (gần đó), Cunningham và Maisey lại tìm được một cặp hộp khắc tên hai đệ tử thượng thủ.[115] Cunningham kết luận: sau khi hai vị viên tịch, xá-lợi vốn thờ gần Vương Xá; đến thời A Dục, xá-lợi được phân phối lại khắp Ấn Độ.[120] Một giả thuyết khác: có thể một vuaSunga đã làm việc phân phối tương tự đối với xá-lợi của Phật và các đại đệ tử, xây cácstupa như ở Sanchi để thờ.[121]

Bản vẽ của Cunningham về các hộp xá-lợi ở Sanchi gán cho hai đệ tử thượng thủ.

Sau đó Cunningham và Maisey chia hiện vật: Maisey mang bộ Satdhāra sang Anh, choBảo tàng Victoria and Albert mượn năm 1866,[122][123] bảo tàng mua lại năm 1921 từ con trai ông.[122] Cunningham đưa phần của mình trên hai tàu; một chiếc bị đắm, nên xá-lợi Sanchi được cho là đã mất.[122][124] Tuy nhiên,Torkel Brekke cho rằng thực ra Maisey mang cả hai bộ, nên xá-lợi Sanchi cũng sang Anh cùng Satdhāra.[123] Đầu thế kỷ 20, các tổ chức Phật giáo ở Ấn Độ và Miến Điện vận động chính phủ Anh hoàn trả để phụng thờ đúng mức.[125] Dù Bảo tàng Victoria and Albert ban đầu phản đối, cuối cùng chính phủ Anh đồng ý vì lý do ngoại giao.[126] Năm 1947, xá-lợi được chuyển đếnSri Lanka và trưng bày tạm ởBảo tàng Colombo.[119][127] Năm 1949, xá-lợi được đưa đi triển lãm ở miền bắc Ấn Độ và nhiều vùng châu Á.[127] Năm 1950, xá-lợi sang Miến Điện; Thủ tướngU Nu xin Ấn Độ cho một phần, Thủ tướngJawaharlal Nehru đồng ý “cho mượn vĩnh viễn”; phần này an trí tạiKaba Aye Pagoda năm 1952.[128] Sri Lanka cũng nhận một phần - mang từ Sanchi năm 1952 - lưu tạiMaha Bodhi Society ở Sri Lanka.[129] Phần còn lại ở Ấn Độ được thờ tại Chethiyagiri Vihara (Sanchi), cũng từ năm 1952.[130]

Di sản

[sửa |sửa mã nguồn]
Tượng Phật cùng hai đệ tử thượng thủ tạiTrung tâm Nghệ thuật và Văn hóa Bangkok: truyền thống đặt Xá-lợi-phất bên phải, Mục-kiền-liên bên trái.[10]

Là đệ tử thượng thủ, Xá-lợi-phất có vị trí đặc biệt quan trọng, nhất là trongTheravada.Reginald Ray xem ông là A-la-hán vĩ đại nhất trongKinh tạng Pali, giữ vị trí “gần như bậc Phật thứ hai”.[131] Có văn bản gọi ông “Vua của Pháp” (Sanskrit:Dharmarāja) - danh xưng thường dành cho Phật - và mô tả ông “chuyển bánh xe Pháp”, quyền năng vốn gắn với chư Phật.[132] Trong Kinh tạng Pali, ông là người thuyết chính của nhiềukinh, vì Phật đặt nhiều tin tưởng nơi khả năng hoằng pháp của ông.[133]Alex Wayman xem ông là mẫu mực của bốnphạm trú, và nhờ các đức hạnh này mà Phật giao ông lãnh đạo tăng đoàn.[133]

Trongnghệ thuật Phật giáo, ông thường được vẽ cùng Phật và Mục-kiền-liên: Xá-lợi-phất bên phải, Mục-kiền-liên bên trái.[10] Nyanaponika Thera giải rằng đây là biểu trưng vị trí họ khi còn tại thế - Xá-lợi-phất là “cánh tay phải” của Phật.[55] Trong Đại thừa, cách bố trí hai bên này đôi khi chuyển sang các cặp khác - nhưPhổ HiềnVăn-thù, hoặcA-nanĐại Ca-diếp.[134] Ở Miến Điện, Xá-lợi-phất được tin ban trí tuệ cho người lễ bái và là một trong tám A-la-hán thường được cầu nguyện trong nghi thức hộ trì.[135]

Xá-lợi-phất tiêu biểu cho học thuật và đời sống tu viện định cư - khác với truyền thống rừng gắn với nhiềumười đại đệ tử.[131] Ray mô tả ông như mẫu hình “thánh Phật giáo” hiện thân lý tưởng của Phật giáo Nam truyền phát triển ở cổKosambi.[136] Tuy vậy, một số văn bản Pali nhưUdāna,Theragāthā lại khắc họa ông như thánh nhân rừng. Ray kết luận: ít nhất có hai truyền thống về ông trong Pali - rừng và học thuật.[137] Migot nhận diện nhóm văn bản không nêu tính học giả là sớm hơn, và lập luận vị Xá-lợi-phất lịch sử có thể khác hình tượng trong Kinh tạng Pali: ban đầu ông được tôn kính như thánh nhân ở vùng Kosambi; pháiThượng tọa bộ sơ kỳ sau đó nhấn mạnh phương diện học thuật phù hợp giá trị địa phương.[67][138] Ray cho rằng dù có thể tính học thuật là yếu tố thêm sau, chưa đủ bằng chứng dứt khoát.[139]

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú giải

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Một số văn bản Pali ghi làng sinh là Nālaka,[10] có thể là tên khác của Upatissa.[8]
  2. ^Một bản trong Đại Tạng Trung Hoa kể Śāriputra trước hết đến yết kiến Phật một mình sau khi được A-thuyết-thị hóa độ, rồi xin phép đi tìm bạn.[38]
  3. ^Tỳ-kheoThanissaro Bhikkhu nhận xét nghe thì có vẻ “công việc thấp” hơn, nhưng dẫn dắt từ phàm đếnnhập lưu còn khó hơn đưanhập lưu lênA-la-hán.[65]
  4. ^Bản này mâu thuẫn với một số văn bản nói Cấp Cô Độc đã qua đời trước đó.[84]
  5. ^Một số truyền thống chiaAbhidharma thành sáu hoặc tám phần, thay vì bảy.[87]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 31-32.
  2. ^Mahathera 1998, tr. 235.
  3. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 376-377.
  4. ^Shaw 2013, tr. 455.
  5. ^abcHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 67.
  6. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 58-61.
  7. ^abcMalalasekera 2007, tr. 542.
  8. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 521.
  9. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 49.
  10. ^abcdefSilk 2019, tr. 410.
  11. ^Sayadaw 1990.
  12. ^Sankalia, Hasmukhlal Dhirajlal (1972).The University of Nalanda (bằng tiếng Anh). Oriental Publishers.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  13. ^Xuanzang (1958).Si-yu-ki: Ta-Tʻang-si-yu-ki. Books 6-9 (bằng tiếng Anh). Susil Gupta. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.
  14. ^Purātattva (bằng tiếng Anh). Indian Archaeological Society. 2006. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.
  15. ^East and West (bằng tiếng Anh). Instituto italiano per il Medio ed Estremo Oriente. 1988.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  16. ^Prasad, Chandra Shekhar (1988)."Nalanda vis-à-vis the Birthplace of Śāriputra".East and West.38 (1/4):175–188.ISSN 0012-8376.JSTOR 29756860.Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2021.
  17. ^The Maha Bodhi (bằng tiếng Anh). Maha-Bodhi Society. 1981.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  18. ^Shaw 2013, tr. 458.
  19. ^Shaw 2006, tr. 36.
  20. ^abcdefSilk 2019, tr. 411.
  21. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 87.
  22. ^"Sharadvatiputra, aka: Śāradvatīputra".Wisdom Library. 2019.Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2019.
  23. ^Buswell & Lopez 2013, tr. 1902.
  24. ^Thakur 1996, tr. 66.
  25. ^Daulton 1999, tr. 102.
  26. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 49-50.
  27. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 50.
  28. ^Harvey 2013, tr. 14.
  29. ^Lamotte, E. (1947). "La légende du Buddha" [The legend of the Buddha].Revue de l'histoire des religions (bằng tiếng Pháp).134 (1–3):65–6.doi:10.3406/rhr.1947.5599.
  30. ^Migot 1954, tr. 430-2, 440, 448.
  31. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 51.
  32. ^abcdefgBuswell & Lopez 2013, tr. 1903.
  33. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 51-53.
  34. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 53.
  35. ^Carus 1905, tr. 180.
  36. ^Carus 1905, tr. 180-181.
  37. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 54.
  38. ^Migot 1954, tr. 450.
  39. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 55-56.
  40. ^abMigot 1954, tr. 451.
  41. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 56.
  42. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 31-32,57.
  43. ^Daulton 1999, tr. 104.
  44. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 57-58.
  45. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 56-57.
  46. ^Migot 1954, tr. 452.
  47. ^abcNyanaponika Thera (ngày 30 tháng 11 năm 2013)."The Life of Sariputta".Access to Insight (bằng tiếng Anh). Truy cập 2 tháng 10, 2025.
  48. ^"Assaji: 5 definitions".Wisdom Library (bằng tiếng Anh). 18 tháng 4, 2025. Truy cập 2 tháng 10, 2025.
  49. ^"Relatives and Disciples of the Buddha - 02a".Budsas.org (bằng tiếng Anh). 2005. Truy cập 2 tháng 10, 2025.
  50. ^"26.9 The Story about the Elder Sāriputta".Ancient Buddhist Texts (bằng tiếng Anh). tháng 8 năm 2024. Truy cập 2 tháng 10, 2025.
  51. ^Krey 2010, tr. 19.
  52. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 65.
  53. ^Migot 1954, tr. 416.
  54. ^abcdefghSilk 2019, tr. 413.
  55. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 47.
  56. ^abCunningham 1854, tr. 299-300.
  57. ^Migot 1954, tr. 407,462-463.
  58. ^Krey 2010, tr. 23.
  59. ^abcdefghMalalasekera 1937.
  60. ^Migot 1954, tr. 408,467.
  61. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 69-70.
  62. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 74-75.
  63. ^abMigot 1954, tr. 471.
  64. ^abHecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 68-69.
  65. ^Bhikkhu, Thanissaro (ngày 30 tháng 11 năm 2013)."Saccavibhanga Sutta: An Analysis of the Truths".www.accesstoinsight.org. Access to Insight.Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020.
  66. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 69.
  67. ^abRay 1994, tr. 134.
  68. ^Silk 2019, tr. 413-414.
  69. ^abcdeSilk 2019, tr. 414.
  70. ^Silk 2019, tr. 415-416.
  71. ^Migot 1954, tr. 506.
  72. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 91-92.
  73. ^abSilk 2019, tr. 412.
  74. ^Migot 1954, tr. 507-508.
  75. ^Migot 1954, tr. 508.
  76. ^Migot 1954, tr. 473-474.
  77. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 106-107.
  78. ^Migot 1954, tr. 475.
  79. ^Migot 1954, tr. 476.
  80. ^Hecker & Nyanaponika Thera 2003, tr. 112-114.
  81. ^Cunningham 1854, tr. 303-304.
  82. ^abSilk 2019, tr. 414-415.
  83. ^Migot 1954, tr. 484.
  84. ^Silk 2019, tr. 415.
  85. ^abcSilk 2019, tr. 416.
  86. ^Bodhi & Dhamma 1993, tr. 2.Lỗi sfn: không có mục tiêu: CITEREFBodhiDhamma1993 (trợ giúp)
  87. ^Migot 1954, tr. 521.
  88. ^Migot 1954, tr. 520.
  89. ^Migot 1954, tr. 408.
  90. ^Migot 1954, tr. 523.
  91. ^Thomas 1953, tr. 158.
  92. ^Migot 1954, tr. 524-524,537-540.
  93. ^Thomas 1953, tr. 159-160.
  94. ^abLopez 1988, tr. 51.
  95. ^Migot 1954, tr. 537.
  96. ^Migot 1954, tr. 538.
  97. ^abcdefghSilk 2019, tr. 416-417.
  98. ^Irons 2007, tr. 428.
  99. ^Buswell & Lopez 2013, tr. 1904.
  100. ^abcBerger 1994, tr. 350-352.
  101. ^abBlack & Patton 2015, tr. 126.
  102. ^Conze 1983, tr. 5.
  103. ^Conze 1975, tr. 17,25,28,29.
  104. ^Conze 1975, tr. 56.
  105. ^Lopez 1988, tr. 52.
  106. ^Lopez 1988, tr. 49.
  107. ^Lopez 1988, tr. 121.
  108. ^Lopez 2016, tr. 12-13.
  109. ^Hanh 2008, tr. 38.
  110. ^Hanh 2008, tr. 46.
  111. ^Hanh 2008, tr. 47.
  112. ^Migot 1954, tr. 491.
  113. ^Higham 2004, tr. 215.
  114. ^Daulton 1999, tr. 104-105.
  115. ^abDaulton 1999, tr. 106-107.
  116. ^Le 2010, tr. 148.
  117. ^Brekke 2007, tr. 274.
  118. ^Cunningham 1854, tr. 297.
  119. ^abThera, Nyanaponika (ngày 30 tháng 11 năm 2013)."The Life of Sariputta, compiled and translated from the Pali texts by Nyanaponika Thera".www.accesstoinsight.org.Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2020.
  120. ^Brekke 2007, tr. 275.
  121. ^Daulton 1999, tr. 105-106.
  122. ^abcDaulton 1999, tr. 108.
  123. ^abBrekke 2007, tr. 277.
  124. ^Brekke 2007, tr. 277-278.
  125. ^Daulton 1999, tr. 109.
  126. ^Brekke 2007, tr. 279-284.
  127. ^abMaha Thera Tripitakavagisvaracarya 1892, tr. 118.
  128. ^Daulton 1999, tr. 111-121.
  129. ^Akkara, Anto (ngày 15 tháng 1 năm 2015)."Buddhist center breaks tradition, shows pope revered relic".Catholic Philly (bằng tiếng Anh).Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2020.
  130. ^Daulton 1999, tr. 110-111.
  131. ^abRay 1994, tr. 131-133.
  132. ^Migot 1954, tr. 412, 500-501.
  133. ^abWayman 1997, tr. 212.
  134. ^Buswell & Lopez 2013, tr. 731.
  135. ^Buswell 2004, tr. 750.
  136. ^Ray 1994, tr. 138.
  137. ^Ray 1994, tr. 135-136.
  138. ^Findly 2003, tr. 398.
  139. ^Ray 1994, tr. 134-135.

Thư mục tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Sách tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་,tiếng Tây Tạng |ja.: 日本語tiếng Nhật |ko.: 한국어,tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli,tiếng Pali |sa.: Sanskrit संस्कृतम्,tiếng Phạn |zh.: 中文chữ Hán
Cổng thông tin:
Cuộc đờiThích-ca Mâu-ni
Tổng quan về cuộc đời Phật Thích Ca Mâu Ni
Gia đình
Anh em họ
Các đệ tử
nổi bật
Đại cư sĩ
Các quân vương
Các quốc gia
/vương quốc
Sự kiện chính
Địa danh
quan trọng
Nhân vật và
sự kiện
thần thoại
Kinh điển
quan trọng
(Tam tạng
Kinh điển
)
Tư tưởng chính
Bồ tát phổ biến
Phật giáo Trung Quốc
Kim cương thừa
Bồ tát khác
Phật
Bồ Tát
Tăng già
Các đề tài vềPhật giáo
Nền tảng
Đức Phật
Khái niệm chính
Vũ trụ học
Nghi thức
Niết-bàn
Tu tập
Nhân vật chính
Kinh điển
Phân nhánh
Quốc gia
Lịch sử
Triết học
Văn hóa
Khác
So sánh
Danh sách
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Xá-lợi-phất&oldid=74294800
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp