Cáo cát Tây Tạng (danh pháp hai phần:Vulpes ferrilata) là một loàiđộng vật có vú trongchi Cáo,họ Chó,bộ Ăn thịt. Loài này được Hodgson mô tả năm 1842.[1]
Cáo Tây Tạng là loàiđặc hữu củacao nguyên Tây Tạng trongNepal,Trung Quốc,Sikkim, vàBhutan, lên đếnđộ cao khoảng 5.300 m. Nó được phân loại làloài ít quan tâm bởiIUCN, do phạm vi rộng rãi của nó trong các thảo nguyên của cao nguyên Tây Tạng và bán sa mạc. Chúng chủ yếu săn bắtpika, tiếp theo làđộng vật gặm nhấm,marmot, thỏ rừng lông len vàthằn lằn. Chúng cũng ăn xác củalinh dương Tây Tạng,hươu xạ,cừu Bharal và vật nuôi của con người.
Về ngoại hình, Cáo cát Tây Tạng có đôi tai vừa, nhưng khuôn mặt của chúng lại lớn bất thường. Phần mõm dài và nhỏ, đôi mắt hơi lờ đờ, lớp lông hai bên má dày khiến tổng thể khuôn mặt trở nên quá khổ so với cơ thể nhỏ gọn.
Bài viết về các loài trong bộthú ăn thịt này vẫn cònsơ khai. Bạn có thể giúp Wikipediamở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.