| Vương hoàng hậu 王皇后 | |||||
|---|---|---|---|---|---|
| Hoàng hậu Trung Quốc | |||||
| Thông tin chung | |||||
| Sinh | ? Nam Dương,Kinh Châu (Nay làNam Dương, Hà Nam) | ||||
| Mất | ? Công An, Kinh Châu (Nay làCông An,Hồ Bắc) | ||||
| An táng | Kính Lăng (敬陵) | ||||
| Phu quân | Ngô Đại Đế | ||||
| Hậu duệ | Tôn Hưu | ||||
| |||||
Vương phu nhân (tiếng Trung:王夫人; ? – ?), không rõ tên thật, là phi tần của Ngô Đại ĐếTôn Quyền, vị vua đầu tiênĐông Ngô thờiTam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Vương phu nhân quê ở quậnNam Dương,Kinh Châu,[1] được tuyển vào hoàng cung Đông Ngô, được Tôn Quyền sủng ái. Năm 235, Vương phu nhân sinh hoàng tửTôn Hưu.[2]
Năm 242, sau khi thái tửTôn Đăng chết bệnh, Tôn Quyền lập Tôn Hòa làm Nam cung Thái tử.[3] Tôn Quyền vốn sủng áiVương phu nhân (quê Lang Gia, mẹ Tôn Hòa), dự định lập Vương phu nhân làm hoàng hậu, bèn di chuyển hết các cơ thiếp sang nơi khác. Vương phu nhân rời hậu cung, đến sống ởCông An,Kinh Châu. Về sau, Vương phu nhân chết bệnh, an táng tại chỗ.[2]
Năm 264, con trai của Vương phu nhân là Tôn Hưu được quyền thầnTôn Lâm lập làm vua, tứcNgô Cảnh Đế. Tôn Hưu truy tôn mẹ đẻ thụy hiệuKính Hoài hoàng hậu, cải táng ở Kính Lăng. Em trai của Vương phu nhân là Văn Ung cũng được phong tướcđình hầu.[2]
Em trai:
Vương phu nhân không xuất hiện trong tiểu thuyếtTam quốc diễn nghĩa củaLa Quán Trung. Ở hồi 108, Tôn Hưu được giới thiệu là con trai thứ sáu của Tôn Quyền, không nhắc đến mẹ đẻ là ai.[4]