| Vương Hảo Cổ | |
|---|---|
| Tên chữ | Hải Tạng |
| Thông tin cá nhân | |
| Sinh | |
Ngày sinh | 1200 |
Nơi sinh | Hà Bắc |
Quê quán | huyện Bình Cức |
| Mất | 1264 |
| Giới tính | nam |
| Học vấn | Tiến sĩ Nho học |
| Nghề nghiệp | bác sĩ,nhà văn |
| Quốc tịch | nhà Nguyên |
[sửa trên Wikidata]x • t • s | |
Vương Hảo Cổ (tiếng Trung:王好古;bính âm:Wáng Hǎogǔ; 1200–1264),[1] tựHải Tạng (tiếng Trung:海藏;bính âm:Hǎizàng),[2] là mộtthầy thuốc vànhà văn Trung Quốc. Ông là tác giả của một chuyên luận vềchứng điên loạn và phương thuốc chữa trị, ngoài ra còn có tư liệu y khoa phân loại độc nhất các thuốc theo thuyếtngũ hành.
Sau khi đỗ học vịtiến sĩ (kỳ thi khoa cử cao nhất), Vương theo học y khoa vớiLý Đông Viên [zh].[a] Vương là người gốc Triệu Châu,Hà Bắc, còn Lý ở huyệnChính Định gần đó.[1] Vương đặc biệt bị ảnh hưởng bởi triết lý dùng thuốc "linh hoạt" của Lý.Âm chứng lược lệ (陰證略例)[b] do ông biên soạn dựa trên các tác phẩm của Lý và lần đầu đưa ra một "liệu pháp bổ sung cho bệnh nhân điên".[4] Trong cuốn sách gồm mười hai quyển thuật lại những kinh nghiệm của mình với vai trò là một quân y,[5] Vương phân biệt giữa chứng cuồng dương và cuồng âm. Ông ghi chú trong phần phụ lục là đã vay mượn một phương thuốc "chống hỏa lực" từThương hàn luận hoặcChuyên luận về vết thương lạnh để chữa trị cho một nữ bệnh nhân chịu đau đớn do mắc chứng cuồng dương. Dù vậy, ông phê phánThương hàn luận vì đã bỏ qua bệnh cuồng âm, và giới thiệu phương thuốc chữa trị của riêng ông, bao gồmô đầu vàgừng. Công thức của Vương trở thành phương thuốc chữa bệnh tiêu chuẩn chochứng điên loạn ởTrung Quốc vào thế kỷ 15.[4]
Vương bác bỏ các thực hành dược lý tiêu chuẩn có từ thờinhà Đường vànhà Tống.[3] Cuốc sách tư liệu y khoa gồm ba quyển, có tựa đềThang dịch bản thảo (湯液本草)[c][6] được biên soạn vào khoảng năm 1246,[7] là một nỗ lực độc nhất trong việc phân loại thuốc theo thuyếtngũ hành,[2] thay vì hướng đến động vật, khoáng chất và thực vật.[3]
Vương được cho là người đầu tiên nhận thấy hạtba đậu (Croton tiglium), vốn được biết đến rộng rãi là thuốc nhuận tràng, cũng có đặc tính chốngtiêu chảy.[8] Sau đó vào thờinhà Minh, thầy thuốcLý Thời Trân có thể chữa khỏi bệnh tiêu chảy bằng hạt ba đậu, sau khi nghiên cứu tác phẩm của Vương Hảo Cổ.[9]