Uruguay được coi là một trong những quốc gia tiến bộ nhất về xã hội ở Mỹ Latinh. Năm 2007, Uruguay là nước đầu tiên ở Mỹ Latinh thực hiệnkết hợp dân sự cho những người cùng giới. Năm 2013, Uruguay trở thành nước đầu tiên trên thế giới cho phép hoàn toàn việc sản xuất, mua bán và tiêu thụcần sa.
Từ tiếng Tây Ban NhaRepública Oriental del Uruguay dịch sangtiếng Việt làCộng hoà Đông Uruguay vì Uruguay có vị trí địa lý ở phía đôngsông Uruguay. VìUruguay trongtiếng Guaraní nghĩa là con sông nơi mà loài chim đang sống nênViệt Nam Cộng hòa gọi Uruguay là Điểu Hà. Địa danh này vẫn được cộng đồng người Việt hải ngoại dùng để chỉ Uruguay trong những trậnbóng đá.[18]
Khingười Tây Ban Nha đến khai phá Uruguay vào đầuthế kỷ 16 thì bịthổ dân chống đối.Người Bồ Đào Nha lúc bấy giờ đã chiếm đượcBrasil cũng kéo xuống đòi chủ quyền khiến Uruguay trở thành chiến trường giữa haiđế quốc,Bồ Đào Nha vàTây Ban Nha. Khoảng năm1669 -1671, Bồ Đào Nha lập đồn lũy ở Colonia del Sacramento hầu kiểm soát khu vực này. Trong khi đó Tây Ban Nha cũng tìm cách đưa dân đến lập nghiệp để củng cố chủ quyền vì biên giới giữa Phó vương quốc Río de la Plata và Brasil không được ấn định. Năm 1680 quân Tây Ban Nha chiếm được dải đất phía đông sông La Plata mà họ gọi là Banda Oriental nhưng lại hoàn lại cho Brasil năm 1681 sau hòa ước giữa hai nước. Quân Tây Ban Nha lại tiến chiếm mấy đợt nữa: 1705-18, 1762, đến năm 1777 Tây Ban Nha chiếm ưu thế. Triều đình Tây Ban Nha cho xây tòa thành lớn ởMontevideo dùng đó làm căn cứ quân sự và phát triển thànhhải cảng lớn. Tầm vóc của Montevideo dần ngang ngửa vớiBuenos Aires bênArgentina. Vào những năm1806 -1807, trong khi bên Âu châu Anh và Pháp lâm chiến thì ở Nam Mỹ cuộc chiến chốngNapoleon cũng cuốn Anh, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha vào vòng binh lửa. Vì Tây Ban Nha làđồng minh của Pháp nên hải quân Anh khai hỏa, tấn côngMontevideo lẫnBuenos Aires. Cả hai thị trấn thất thủ; quân Anh chiếm được Montevideo vào năm1807 nhưng không bao lâu thì quân Tây Ban Nha tái chiếm được.
Năm 1811,José Gervasio Artigas, dấy binh chống lại chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha. Hai bên giao chiến. Ngày 18 tháng 5, 1811 quân của Artigas thắng lớn trongtrận Las Piedras; quân triều đình do kinh lược sứFrancisco Javier de Elío chỉ huy tuy thua trên bộ nhưng vẫn còn đường biển nên gửi thư mời quân Bồ Đào Nha tham chiến dẹp quân phiến loạn. Nghe tin thấy quân Bồ sắp vào, phe cách mạng ở Buenos Aires sợ hai mặt thụ địch nên giảng hòa với Elío, chấp nhận cho Elío cai trị Banda Oriental. Artigas giận lắm vì bị phản bội nên rút quân vềEntre Ríos.
Chính phủ cách mạng sau đó nhóm họp ở Buenos Aires để chọn quốc hội lập hiến. Artigas thì tranh đấu đòi lập thể chếliên bang để mỗi vùng nhưBanda Oriental có quyền tự trị về chính trị và kinh tế.[19] Tuy nhiên nhóm Buenos Aires không chịu cho đại biểu của Banda Oriental tham gia và chỉ chấp nhận một thể chế trung ương đơn nhất, tập trung quyền lực vào một nơi.[19]
Không được nhìn nhận, Artigas rút khỏi Buenos Aires và kéo quân về vây Montevideo vẫn do Elío chỉ huy; chẳng bao lâu thành Montevideo thất thủ, Artigas lên nắm quyền, đó là năm 1815.[19] Artigas tuyên bố chính phủ tự trị[19] và lậpLiga Libre tứcLiga de los Pueblos Libres (Liên đoàn dân tự do) gồm sáu tỉnh ở hạ lưu sônng Uruguay.[19]
Trong khi đó thấy tình hình rối loạn một vạn quân Bồ Đào Nha kéo vào chiếm lấy Banda Oriental năm 1816, lập ra xứ Cisplatina thuộc Brasil. Thành Montevideo thất thủ Tháng Giêng 1817.[19] Quân của Artigas phải rút về thôn quê hoạt động. Mấy phe lâm chiến đều phái quân vào khu vực: quân của chính phủ Trung ương Buenos Aires (Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata), quân địa phương của Artigas và quân Bồ nhưng bất phân thắng bại. Cuộc chiến dai dẳng đến năm 1822 thì Brasil độc lập, lập raĐế quốc Brasil. Quân Bồ rút đi thay thế bởi quân Brasil; chiến cuộc vẫn tiếp diễn.
Ba năm sau ngày 25 Tháng Tám 1825,Juan Antonio Lavalleja lãnh tụ của nhóm quân địa phương dưới tên33 Oriental tuyên bố xứ Banda Oriental độc lập, lại được phe Liên hiệp các tỉnh Río de la Plata ở Buenos Aires ủng hộ[20] nên chiến tuyến thu hẹp thành hai phe rõ rệt: quân Brasil và quân độc lập. Hai bên giao chiến gần hai năm (chiến tranh Cisplatina) nhưng tình hình quân sự vẫn không dứt khoát. Vương quốc Anh vốn muốn tình hình ổn định để việc buôn bán được phát đạt bèn đứng làm trung gian giảng hòa để hai bên ký kếtHiệp ước Montevideo năm 1828. Theo đó khai sinh nước Uruguay độc lập. Cả hai thế lực Brasil và Argentina lui binh. Ngày 18 Tháng Bảy 1830 tân chính phủ Uruguay ban hành hiến pháp mới.
Về mặt đối ngoại Uruguay đã được các nước lân bang công nhận nhưng chính trị quốc nội bị chia rẽ trầm trọng. Bên bảo thủ, tục gọi là phe Blanco (tiếng Tây Ban Nha nghĩa là "trắng") và phe cấp tiến, tục gọi là Colorado ("đỏ") kình nhau trên chính trường suốt gần 100 năm.
Fructuoso Rivera lúc bấy là lãnh tụ phe Colorado, chủ yếu được giới thương gia ở Montevideo ủng hộ; bênBlanco thì cóManuel Oribe làm thủ lãnh, phần lớn do dân quê hậu thuẫn. Mỗi bên đeo băng vải ở tay màu trắng hay màu đỏ để nhận ra nhau. Tình hình bên Argentina cũng tương tự giữa bên cấp tiến và bảo thủ, lôi cuốn luôn chính trị ở Uruguay; mỗi nhóm tìm cách liên kết với đảng phái ngoại bang mà diệt đối thủ quốc nội.
Lúc đảng cấp tiến của Argentina là Unitaria thất thế, nhiều đảng viên phải lưu vong bỏ chạy sang Uruguay. Tổng thống Uruguay lúc bấy giờ là Manuel Oribe thuộc phe bảo thủ Blanco thì lại liên minh với lãnh tụ bảo thủ của Argentina là Manuel de Rosas. Đảng Đỏ quốc nội không chấp nhận nên nhân đó nổi loạn ngày 15 Tháng Sáu, 1838 lật đổ Oribe; Oribe chạy thoát được sang Argentina tá túc.[21] Lãnh tụ của Đảng Đỏ là Rivera lên cầm quyền rồi tuyên chiến với Argentina năm 1839, mở đầu cuộc chiến 13 năm dài. Sử gia Uruguay gọi đó cuộc Đại chiến "Guerra Grande".[21]
Năm 1843, quân Argentina vượt biên giới vào Uruguay để đưa Oribe về nước. Liên minh quân bảo thủ vây hãm thủ đô Montevideo suốt chín năm trời.[22] Phe cấp tiến Colorado của Rivera liền cầu cứu bên Âu châu. Pháp và Ý phê thuận và sửa soạn binh thuyền sang tham chiến.Giuseppe Garibaldi lúc bấy giờ đang lưu vong ở Montevideo được bổ làm chủ tướng của đoàn quân Ý.[22] Tình hình quân sự càng hỗn loạn. Việc ra vào sông La Plata bị gián đoạn khiến nướcParaguay ở thượng nguồn bị cắt đứt không liên lạc được.Anh vàPháp vốn nắm địa vị thương mại then chốt trong khu vực bị thiệt hại nhiều nên lập liên minh trên danh nghĩa tái lập trật tự nhưng đúng ra là chống lại lãnh tụ Rosas của Argentina. Argentina cũng tuyên chiến với cựu thù Brasil. Chiến thuyền hai nước Anh Pháp cùng với quân Uruguay kéo vào cửa biến phong tỏa hải cảng Buenos Aires. Brasil cũng điều quân tham chiến tiến sâu vào lãnh thổ Argentina.
Bị dồn vào bước đường cùng Rosas phải xin hòa, ký thỏa thuận với Anh (1849) và Pháp (1850), theo đó quân Argentina phải triệt thoái khỏi Uruguay không ủng hộ Oribe nữa. Oribe phải tự cầm quân cố đánh lấy Montevideo. Năm 1851 tình hình bỗng xáo trộn vìJusto José de Urquiza, sĩ quan Argentina đột nhiên bỏ Rosas mà ủng hộ bọn cấp tiến Unitaria, kéo quân sang Uruguay đánh tập hậu đoàn binh của Oribe, giải vây Montevideo. Quân cấp tiến Colorado trong thành Montevideo ăn mừng. Urquiza sau đó lại liên minh với Uruguay và Brasil kéo quân trở về Argentina, đánh quân của Rosas trongtrận Caseros ngày 3 Tháng 2 năm 1852. Rosas thua to phải bỏ Argentina mà lưu vong sang Anh. Hòa bình tái lập với phe cấp tiến cầm quyền ở cả hai nước Argentina và Uruguay.
Tình hình quốc nội Uruguay chưa yên thì thế cuộc lại đẩy Uruguay vào cuộc chiến nữa. Nguyên là năm 1863Bernardo Prudencio Berro thuộc đảng bảo thủ Blanco đắc cử lên nắm quyền. Đảng cấp tiến Colorado củaVenancio Flores bất bình rồi nổi loạn, lật đổ Berro. Flores lại liên kết với Brasil còn Berro thì cầu viện Argentina. Để có thêm hậu thuẫn, Berro mờiFrancisco Solano López lãnh tụ Paraguay vốn sẵn có hiềm khích với Brasil để giúp đỡ Đảng Trắng chống Brasil ở Uruguay.
Quân Brasil tràn vào Uruguay năm 1864 giúp Đảng Đỏ và Flores giữ được địa vị nhưng mất đến 90% lực lượng. Berro phải rút lui. Paraguay nhân danh đồng minh với chính phủ Berro tuyên chiến với Uruguay của Flores luôn. Vì muốn mở đường tiếp viện từ Paraguay xuống Uruguay, López phải mượn đường cho quân đội Paraguay băng qua lãnh thổ của Argentina. Argentina không thuận cho. López nổi giận đòi gây hấn với Argentina luôn. Thế là tình hình thay đổi toàn diện, chiến cuộc chuyển từ nội chiến Uruguay với hai thế lực Argentina và Brasil đứng sau lưng, nay dồn sang Paraguay với ba nước Uruguay, Brasil và Argentina cùng liên minh đánh Paraguay, sử gọi làchiến tranh Tam Đồng minh. Paraguay đại bại phải cắt đất hàng chục nghìncây số vuông nhường cho Argentina và Brasil và chịu bồi thường binh phí.
Ở Uruguay oái oăm thay tuy thuộc phe chiến thắng, chính phủ Flores không thu hoạch được gì rồi chính Flores bị ám sát ăm 1868, cùng ngày với cựu thù Berro.
Quốc gia tan hoang vì quá mệt mỏi, hai đảng cấp tiến Colorado và bảo thủ Blanco đành thỏa hiệp năm 1872 chung sống nhưng chia vùng ảnh hưởng: đảng cấp tiến Colorado kiểm soátthủ đô Montevideo và dải duyên hải. Sâu trong lục địa thì đảng bảo thủ Blanco độc quyền ở bốn trong số 13 tỉnh bộ: Canelones, San José, Florida và Cerro Largo. Đảng Trắng cũng được cam đoan một số ghế tối thiểu trong quốc hội.[23] Ngoài ra Đảng Trắng cũng được trả khoản bồi thường nửa triệuMỹ kim để bù đắp việc rút khỏi thủ đô. Tình hình chính trị bớt bạo động nhưng mầm mống chia rẽ vẫn tồn tại âm ỉ, chi phối chính trường quốc nội vì hiềm khí giữa hai đảng vẫn không bớt. Đảng Đỏ lợi dụng đợt cải cách hành chánh thập niên 1890 để giảm uy thế của Đảng Trắng nhưng thất bại. Số tỉnh bộ tăng lên từ 13 lên 16 và lần này Đảng Trắng được toàn quyền trong sáu tỉnh và 1/3 ghế trong quốc hội.[24]
Năm 1875 trong khi hai Đảng Đỏ và Blanco còn xung đột thì nội bộ Đảng Đỏ phân hóa thành hai phe:principista vàneto. Nhómprincipista sẵn sàng hợp tác với Đảng Trắng nhưng nhómneto thì nhất quyết không chịu đứng chung chấp chính. Thủ lĩnh Đảng Trắng làAparicio Saravia lợi dụng tình thế đó mà liên kết với nhóm tướng lãnh lật đổ tổng thốngPedro Varela mới lên chấp nhiệm được hai tháng. Nhóm quân nhân sau đó lần lượt thay nhau lên nắm quyền, không lập chính phủ dân sự.[25]
Nhưng cũng chính vì giới quân nhân lên nắm quyền, dẹp bỏ tranh chấp chính trị giữa hai Đảng Trắng và Colorado mà Uruguay tiến vào thời kỳ phát triển vững vàng, lập nền móng cho một nền kinh tế thịnh vượng. Ý kiến của các nhà kỹ nghệ và đại điền chủ đều được hính phủ quan tâm thực hiện.[25] Với khí hậu ôn hòa, đất rộng người thưa, Uruguay xoay sang chiêu mộdi dân từ Âu châu sang lập nghiệp, đại đa số xuất phát từÝ vàTây Ban Nha.Tỷ lệ di dân nhập cư tăng mạnh từ 48% dân số (1860) lên 68% (1868). Sangthập niên 1870, khoảng 100.000 người Âu châu đã tìm sang Uruguay sinh sống. Tính đến năm 1879 thì chỉ trong hai thập niên Uruguay đã đón nhận 438.000 người. Hơn 100.000 người mới tới lập nghiệp luôn ở thủ đô Montevideo, mang nếp sống Âu Tây cho đô thị non trẻ.
Về mặt kinh tế,ngân hàng đầu tiên khai trương ở Uruguay năm 1857. Tiếp theo là hệ thốngđường sắt,điện lực,điện tín tỏa ra nối liền mọi miền thành thị và nông thôn.Ngành chăn nuôi phát triển mạnh nhất, góp phần cho ngànhxuất cảng nổi trội. Các đànmục súc nhưchiên cừu nhảy vọt từ ba triệu lên 17 triệu do phương pháp cải tiến chăn nuôi của những dân Âu châu nhập cư.
Montevideo biến thành trung tâm kinh tế lớn vì vị trí thiên nhiên với thương cảng thuận tiện ở cửasông La Plata. Khác với Buenos Aires, Montevideo không bị nạn cát bồi nghẽn cửa sông nên thương thuyền hàng hải có thể ra vào dễ dàng. Montevideo hiển nhiên trở thành trạm trung chuyển hàng hóa cho cả ba nước:Argentina,Brasil vàParaguay. Các thị trấnPaysandú vàSalto dọcsông Uruguay cũng hưởng lợi, phát triển nhanh chóng.
Uruguay tiếp tục phát triển vào đầu thế kỷ 20 với diện tích chăn nuôi mở rộng. Hàng ràokẽm gai giúp nhà nông kiểm soát đàn mục súc, chủ yếu là cừu và bò, thay vì thả rong phải chăn thành đàn như xưa. Các nông phẩm nhưda bò vàlen tăng đáng kể, dẫn đầu các mặt hàng xuất cảng kể từ năm 1884 trở đi. Kỹ thuậtđông lạnh vàđóng hộp thúc đẩy việc xuất cảngthịt bò. Các nhà kỹ nghệ nhất làngười Anh bỏ vốn ra canh tân đường sắt và thương cảng Montevideo để thu lời. Vì chính trị đã tương đối ổn định, tình hình an ninh cũng cải thiện cho dù vấn nạntham nhũng vẫn đeo đuổi nước Uruguay.
Năm 1890, Đảng Đỏ trở lại chấp chính khi phe quân nhân rút lui. Tổng thốngJuan Idiarte Borda thuộc Đảng Đỏ không may bị ám sát năm 1897, bỏ trống ghếhành pháp. Đảng Trắng doAparicio Saravia lãnh đạo đòi Đảng Đỏ phải nhường quyền nhưng không thành. Năm 1903 Đảng Đỏ đưaJosé Batlle y Ordóñez lên làm tổng thống nhưng không lâu sau đó Đảng Trắng lại nổi loạn, cả vùng nông thôn bị cuốn vào cơn khói lửa kéo dài tám tháng. Chuỗi bạo động chỉ bị dập tắt khi chủ tịch Đảng Trắng là Saravia tử trận. Đảng Đỏ lại chiếm ưu thế và đến năm 1905 mở cuộc tổng tuyển cử, đưa nền chính trị Uruguay vượt qua một chặng khủng hoảng lớn.
Batlle là lãnh đạo Đảng Đỏ, chủ trương dồn hết nỗ lực vào việc phát triển kinh tế. Chính phủ mở rộng tầm kiểm soát và kích thích mọi ngành kể cả xuất công quỹ đầu vốn cho vùng nông thôn nơi Blanco nắm ưu thế. Chính phủ cũng đề ra nhiều cải cách về giáo dục,an ninh xã hội, lao động, và hình sự như hủy bỏ ántử hình và hộ sự như cho phép phụ nữ đứng đơnly dị. Địa vị củaGiáo hội Công giáo La Mã giảm dần, nhường chỗ cho một xã hội dân sự tự do hơn.
Batlle chấp chính hai nhiệm kỳ (1903-1907 và 1911-1915) nhưng cũng lo ngại là bao nhiêu cải cách ông thực hiện sẽ bị đảo ngược trong nay mai nếu tình hình chính trị giữ nguyên công thức hiện hữu, tức là hai Đảng Đỏ và Đảng Trắng tiếp tục đối đầu. Muốn thay đổi toàn diện, Batlle đề nghị soạnhiến pháp mới, trong đó điều khoản quan trọng là lập cơ chế hành pháp tập thể gọi làcolegiado để phân quyền. Tổng thống trông coingoại giao,quốc phòng và an ninh quốc gia. Phụ tá tổng thống làConsejo Nacional de Administración, tức Hội đồng quốc gia hành chánh, thường gọi làcolegiado có chín người, đảm nhiệm những thành phần khác nhưy tế, kỹ nghệ, lao động, nông nghiệp, giáo dục. Hội đồng này cũng sẽ lãnh phần soạn ngân sách. Sáu trong chín ghế thuộc đảng cầm quyền, ba ghế còn lại do đảng đối lập giữ.Colegiado đầu tiên nhóm họp năm 1919.[26]
Với cơ chế hành pháp phân quyền, Uruguay bước vào thời kỳ ổn định lâu dài. CuộcĐại khủng hoảng kinh tế toàn cầu thập niên 1920-30 gây ra không ít khó khăn nhưng quốc gia vẫn phát triển về mọi mặt.
Năm 1930, Uruguay là nước tiên phong đăng cai tổ chứcWorld Cuptúc cầu. Kỳ đó Uruguay đánh bại đối thủ không ai khác hơn là nước lân bang Argentina với tỷ số 4-2. Uruguay đi vào lịch sử thế giới năm 1930 với sự kiện đó. Hai mươi năm sau Uruguay lần nữa lại đoạt giải vô địch túc cầu năm 1950, lần này chiến thắng đội Brasil.
Vào cuốithập niên 1950, kinh tế Uruguay phải đối diện với nền kinh tế suy giảm. Ngành xuất cảng yếu dần trong khilạm phát và tỷ lệthất nghiệp gia tăng kéo theo bất ổn xã hội: sinh viên và công nhân thường xuống đường phản đối. Phong trào du kíchTupamaros thì theo đuổi đường lối bạo động, chủ trương cướp tiền các cơ quan tài chánh cùng ngân hàng rồi phát lại cho người nghèo. Chính phủ liệt nhóm này vào thành phầnkhủng bố nên nhất quyết không thương lượng. Tupamaros càng gia tăng hoạt động nhưbắt cóc và thủ tiêu những công chức họ cho là tham nhũng.
Tình hình suy thoái khiến Tổng thống Jorge Pacheco phải tuyên bốthiết quân luật năm 1968, hạn chếquyền tự do dân sự. Năm 1972 Tổng thống Juan María Bordaberry kế nhiệm theo đuổi chính sách cứng rắn hơn, ra tay diệt các nhóm du kích thiên tả nhưMovimiento liberación nacional - Tupamaros (viết tắt: MLN-T) tức Phong trào giải phóng quốc gia Tupamaros. Bordaberry cũng ra lệnh giải tán quốc hội. Phe quân nhân từ đó nằm quyền hành pháp từ năm 1973 đến 1985; họ thẳng tay đàn áp các nhóm đối lập. Số tù nhân chính trị lên cao.
Đầu thập niên 1980 phe quân phiệt xúc tiến mở cuộctrưng cầu dân ý thông qua hiến pháp mới để dễ bề tham chính nhưng thất bại. Họ đành phải mở đường nhường quyền lại cho chính phủ dân sự và tổ chức tổng tuyển cử năm 1984.[20] Lãnh tụ Đảng Đỏ làJulio María Sanguinetti đắc cử tổng thống với nhiệm kỳ 1985-1990, chấm dứt thời kỳ quân phiệt. Thay vì tìm cách truy tố phe quân nhân, Sanguinetti chủ trương hòa giải, thông qua đạo luật ân xá "Ley de Amnistia", khép lại trang sử cũ để thống nhất lòng người.
Sanguinetti xúc tiến cải cách kinh tế, tập trung vào việc thu hút thương mại và vốn nước ngoài. Kết quả đạt được một số thành công, triển vọng kinh tế sáng sủa hơn. Chính sách hòa giải của Sanguinetti tuy bị chống đối nhưng cuối cùng được thông qua.
Năm 1989 đảng Quốc gia Blanco của Luis Alberto Lacalle đắc cử, lãnh nhiệm kỳ 1990-1995. Lacalle theo đuổi chính sách mở rộng kinh tế, sáng lậpMecosur vào năm 1991 cho bốn nước: Uruguay, Argentina, Brasil và Paraguay. Lacalle còn muốntư hữu hóa nhiều xí nghiệp quốc doanh để giảm nợ công nhưng đề nghị của ông bị triệt hạ trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1992.
Trong cuộc bầu cử năm 1994, cựu Tổng thống Sanguinetti lại ra tranh cử và thắng ghế tổng thống (1995-2000). Vì không đảng nào nắm đa số tại quốc hội, Đảng Quốc gia liên minh với Đảng Đỏ đứng ra lập chính phủ. Những chính sách then chốt cùng hợp tác là cởi mở kinh tế, hội nhập Mercosur và soạn hiến pháp mới; bản hiến pháp này ban hành năm 1996.
Đến kỳ tổng tuyển cử năm 1999 thì Uruguay áp dụng phương thức mới với các đảng tổ chức bầu cử sơ bộ cho mỗi chính đảng vào Tháng Tư, đến Tháng 10 thì bầu cử toàn quốc chọn tổng thống và dân biểu. Trước kia thì chỉ bầu hết một lượt. Người đắc cử hành pháp phải chiếm hơn 50% số phiếu. Vì không đạt được túc số, Uruguay phải tổ chức bầu cử vòng nhì. Đảng Quốc gia lại liên danh với Đảng Đỏ chọn Jorge Batlle, đánh bại Tabare Vázquez thuộc Mặt trận Rộng.
Hai Đảng Đỏ và Đảng Quốc gia tiếp tục liên danh tại quốc hội chống lại Mặt trận Rộng nhưng đến tháng 11 năm 2002, thìĐảng Quốc gia rút khỏinội các trước hiện tình kinh tế suy thoái. Khủng hoảng kinh tế bên Brasil (1999) và Argentina (2001) kéo luôn Uruguay vào vòng bất trắc lại thêm nạn dịchlở mồm long móng gây thiệt hại nhiều cho ngành chăn nuôi. Tỷ số thất nhiệp lên ngót 20% trong khilạm phát kéo giá sinh hoạt quá tầm tay người dân trung bình ở Uruguay, đẩy ngưỡng số dân nghèo lên 40%. Chính phủ đề nghị tiếp tục tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh như ngành dầu khí nhưng bị dân chúng phản đối.
Năm 2004,Tabaré Vázquez trúng cử tổng thống, trong khiMặt trận Rộng giành được đa số tại cả hai viện Quốc hội.[27] Vázquez duy trì chính sách kinh tế chính thống. Khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi từ suy thoái và giá cả hàng hóa tăng vọt, ông tăng gấp ba đầu tư nước ngoài, giảm nghèo, giảm thất nghiệp, kéo giảm nợ công từ 79% GDP xuống 60% và kiểm soát lạm phát.[28] Năm 2009,José Mujica, một cựu lãnh đạo du kích cánh tả từng ngồi tù gần 15 năm vào thời kỳ quân quản, trúng cử tổng thống và Mặt trận Rộng thắng cử lần thứ hai.[29][30] Uruguay cho phép phá thai vào năm 2012[31] vàhôn nhân cùng giới,[32]cần sa vào năm 2013.[33]
Năm 2014, Tabaré Vázquez được tái cử nhiệm kỳ thứ hai.[34] Năm 2020,Luis Alberto Lacalle Pou thuộc Đảng Quốc gia trúng cử tổng thống, chấm dứt thời kỳ 15 năm cầm quyền của phe cánh tả.[35] Ngày 1 tháng 3 năm 2025,Yamandu Orsi thuộcMặt trận Rộng nhậm chức tổng thống.[36]
Lãnh thổ của Uruguay bao gồm 176.220 km² đất liền và 142.999 km2 sông, hồ. So với các nướcNam Mỹ châu thì Uruguay là có diện tích nhỏ thứ nhì sauSuriname. Địa hình chủ yếu là bình nguyên đồng cỏ và một số đồi thấp. Điểm cao nhất là đỉnhCerro Catedral đo được 514 m trong dải đồi Sierra Carapé.
Khí hậu Uruguay là khí hậuôn đới, có đủ bốnmùa:xuân,hạ,thu,đông. Tuy nhiên, gió lạnh từ Nam cực chi phố mùa đông còn mùa hè thì luồng khí nóng từ miềnnhiệt đới Brasil dồn về. Vì địa hình tương đối bằng phẳng, không có núi non ngăn cản nên thời tiết dễ thay đổi đột ngột.
Uruguay là một nước cộng hòatổng thống chế.[37] Hiến pháp Uruguay xác định nguyên tắcquyền lực phân lập.[37] Uruguay là mộtnhà nước đơn nhất: chính phủ trung ương quản lý nhà nước về tư pháp, giáo dục, y tế, an ninh, đối ngoại và quốc phòng.[37]
Tổng thống lànguyên thủ quốc gia kiêmngười đứng đầu chính phủ. Tổng thống và Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quyềnhành pháp. Hội đồng Bộ trưởng gồm 14 thành viên.[37] Tổng thống và phó tổng thống được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ năm năm và không được giữ chức vụ liên tiếp hai nhiệm kỳ. Mỗi đảng đề cử một liên danh ứng cử viên tổng thống thông qua bầu cử sơ bộ.[38]
Quốc hội là cơ quan lập pháp lưỡng viện, gồm Hạ viện và Thượng viện. Hạ viện gồm 99 hạ nghị sĩ đại diện cho 19 tỉnh, được bầu trực tiếp theo hệ thống đại diện tỷ lệ với nhiệm kỳ năm năm. Thượng viện gồm 31 thượng nghị sĩ, trong đó 30 được bầu trực tiếp theo hệ thống đại diện tỷ lệ với nhiệm kỳ năm năm. Phó tổng thống chủ trì các phiên họp Thượng viện và có quyền biểu quyết.[37] Bầu cử Quốc hội được tổ chức đồng thời với bầu cử tổng thống.[38]
Hệ thống tư pháp gồm Tòa án tối cao, các tòa án phúc thẩm và các tòa án sơ thẩm. Thẩm phán Tòa án tối cao do Quốc hội bầu ra the đa số hai phần ba số nghị sĩ. Nhiệm kỳ của thẩm phán Tòa án tối cao là mười năm, trừ phi thẩm phán đến độ tuổi nghỉ hưu là 70 tuổi.[39] Tòa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất và có quyền xem xét tính hợp hiến của luật.[40] Tòa án phúc thẩm gồm ba thẩm phán, các tòa án sơ thẩm gồm một thẩm phán. Tòa án tối cao bổ nhiệm thẩm phán tòa án cấp dưới.[41]
Hiến pháp hiện hành được ban hành vào năm 1967, lần sửa đổi, bổ sung gần đây nhất là vào năm1997.[42][43] Phỏng theo Hiến pháp Thụy Sĩ, Hiến pháp Uruguay cho phép công dân trình dự luật trước Quốc hội và yêu cầu trưng cầu ý dân về việc bãi bỏ luật, sửa đổi hiến pháp.[44]
Bộ Ngoại giao thực hiện chính sách đối ngoại của Uruguay.[47] Uruguay có quan hệ chính trị, văn hóa truyền thống với các nước láng giềng và châu Âu. Đường lối đối ngoại của Uruguay dựa trên nguyên tắc đa phương, không can thiệp vào nội bộ lẫn nhau.[48] Uruguay là một thành viên sáng lập củaLiên Hợp Quốc,Tổ chức các quốc gia châu Mỹ,Mercosur vàHiệp hội Hội nhập Mỹ Latinh.[49] Montevideo thường được so sánh vớiBruxelles vì là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế như Mercosur và Hiệp hội Hội nhập Mỹ Latinh.[50]
Lực lượng Vũ trang Uruguay là lực lượng quân sự chính quy của Uruguay, gồm ba quân chủng Lục quân, Hải quân và Không quân. Tổng thống là tổng tư lệnh Lực lượng Vũ trang và chỉ đạo thông qua bộ trưởng quốc phòng.[51] Lục quân có khoảng 18.000 quân nhân,[52] Hải quân có 6.000 quân nhân, Không quân có 3.000 quân nhân.[51] Nhập ngũ là tình nguyện trong thời bình, nhưng chính phủ có quyền thực hiện nghĩa vụ quân sự trong trường hợp khẩn cấp.[53]
Uruguay là nền kinh tế chủ yếu dựa vào thương mại, đặc biệt là xuất khẩu nông sản, khiến cho trong nước dễ bị biến động giá cả hàng hóa.
Chăn nuôi bò, cừu trở thành ngành kinh tế chủ yếu thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp chế biến để xuất khẩu (len, hàng dệt, thịt và ngành da thú). Ngành trồng trọt gồm có: ngũ cốc, mía, cây ăn quả.
Kinh tế gặp nhiều khó khăn do nợ nước ngoài chồng chất. Là nước thành viên của tổ chứcMercosur, Uruguay bị lấn át bởi hai nước láng giềng khổng lồBrasil vàArgentina. Thâm hụt cán cân mậu dịch gia tăng.
Mặc dùnông nghiệp chỉ chiếm 9%GDP, nhưng nông phẩm chiếm hơn 50% hàng xuất khẩu. Uruguay đứng đầuMỹ Latinh và thứ 6thế giới về xuất khẩulúa gạo.Công nghiệp chủ yếu là chế biến nông sản (thịt, sản phẩm da thuộc,len...). Từ giữa thập kỷ 80 củathế kỷ 20, Uruguay theo mô hìnhkinh tế tự do mới, giảm đượclạm phát vàthâm hụt ngân sách, cân đối xuất nhập khẩu. Uruguay là một trong những nước có điều kiện và chính sách lao động tự do nhất ởchâu Mỹ.
Từ năm1999,kinh tế Uruguay suy thoái, một nguyên nhân lớn là do tác động của việc phá giá tiền tệ củaBrasil làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Uruguay và ảnh hưởng của khủng hoảngkinh tế Argentina.Tháng 6 năm2002, chính phủ quyết định thả nổi đồng pê xô, đồngđô la Mỹ tăng giá 60% so với nội tệ, giúp cho hàng hoá xuất khẩu của Uruguay tăng sức cạnh tranh nhưng cũng gây ra đổ vỡ tín dụng, khủng hoảng hệ thốngngân hàng, làm giảm sức mua của người tiêu dùng và tănglạm phát từ 4% (2001) lên tới 26% (2002).
Uruguay có môi trường đầu tư tốt, hệ thống pháp lý mạnh và thị trường tài chính mở cửa. Chiến lược củachính phủ hiện nay là kích thích tăng trưởng dựa trên việc đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước bạn hàng truyền thống trong khốiMercosur,EU vàBắc Mỹ. Vớichâu Á, Uruguay có quan hệ thương mại vớiNhật Bản,Trung Quốc,Hàn Quốc,Singapore,Malaysia vàIndonesia... Uruguay xuất hàng truyền thống nhưthịt bò,lúa gạo,len,cá, da thuộc và đồ da; nhập khẩu máy móc, hoá chất, nhiên liệu, hàng tiêu dùng, quần áo...
Tính đến năm 2016, GDP của Uruguay đạt 54.374 USD, đứng thứ 79 thế giới và đứng thứ 14 khu vực Mỹ Latin.
Năm 2010, ngành nông nghiệp định hướng xuất khẩu của Uruguay đóng góp 9,3% GDP và sử dụng 13% lực lượng lao động.[54] Số liệu thống kê chính thức từ Bộ Nông nghiệp và Chăn nuôi Uruguay cho biết chăn nuôi thịt và cừu ở Uruguay chiếm 59,6% diện tích đất. Tỷ lệ tăng thêm lên 82,4% khi chăn nuôi gia súc gắn với các hoạt động nông nghiệp khác như sữa, thức ăn gia súc và luân canh với các loại cây trồng như gạo.[55]
Dựa theoFAOSTAT, Uruguay là một trong những nước sản xuất nhiều nhấtđậu tương (9th),len trơn (12th),thịt ngựa (14th),sáp ong (14th) vàmộc qua (17th). Hầu hết trang trại (25,500 trong số 39,120) được quản lý quy mô gia đình; thịt bò và len là hoạt động chính và nguồn thu nhập chính cho 65% trong số đó, tiếp đến là nông nghiệp rau đạt 12%, chăn nuôi bò sữa đạt 11%, lợn đạt 2% và gia cầm cũng ở mức 2%.[55] Thịt bò là mặt hàng xuất khẩu chính của quốc gia, với tổng trị giá hơn 1 tỷ USD năm 2006.[55]
Đường quốc lộ kết nốiMontevideo và các thành phố lớn khác trong nước.Đường cao tốc chính dẫn tới những vùng biên giới. Những con đường nhỏ khác không được trải nhựa nối các trang trại vàthị trấn nhỏ. Đường sá phát triển mạnh sau khiKhối thị trường chung Nam Mỹ được thành lập vào những năm 1990. Hầu hết hàng hóa vận chuyển trong nước được chuyên chở bằngđường bộ chứ không phảiđường sắt.
Một sân bay quốc tế nằm gần khu nghỉ mát bãi biển Carrasco một khoảng 21 km từ trung tâm thành phố Montevideo. Các hãng hàng không thuộc sở hữu của chính phủ, Primeras Líneas Uruguayas de Navegación Aérea (PLUNA), liên kết các điểm đến Montevideo với một số sân bay quốc tế.
Năm 2018, dân số của Uruguay là 3.449.285 người, so với 2,239,000 vào năm 1950. Năm 2015, 21,4% dân số dưới 15 tuổi, 64,2% dân số trong độ tuổi 15-65, 14,4% dân số trên 65 tuổi.[56]
Theo kết quả điều tra dân số năm 2023, 86,0% dân số Uruguay tự nhận là "người da trắng",[58] giảm từ 87,7% vào năm 2011.[59]
Hầu hết người Uruguay gốc Âu là hậu duệ của người di cư từ Tây Ban Nha[60] vào thế kỷ 19 và thế kỷ 20, cùng với Đức, Ý, Pháp và Anh.[61] Những thế hệ trước di cư từ Argentina.[61] 5% dân số là người gốc Phi.[61] Uruguay có một cộng đồngngười Nhật lớn.[62] Thành phần dân tộc của Uruguay giống với các tỉnh láng giềng của Argentina và Nam Brasil.[63]
Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất của Uruguay. Uruguay không cóquốc giáo và đảm bảo quyền tự do tôn giáo.[67] Theo một cuộc khảo sát vào năm 2008, 45,7–81,4%[68] dân số theo Công giáo; 9,0% theo hệ phái Kitô giáo khác, 0,6% theo thuyết vật linh hoặc Umbanda (một tôn giáo Brasil gốc Phi), và 0,4% theo Do Thái giáo. 30,1% tự nhận tin vào thần thánh, nhưng không theo một tôn giáo nào, trong khi 14% làvô thần hoặc theothuyết bất khả tri.[69] Montevideo có một cộng đồng người Armenia lớn, chủ yếu theoGiáo hội Tông truyền Armenia.[70]
Giới quan sát chính trị xem Uruguay quốc gia thế tục nhất ở châu Mỹ.[71] Uruguay thế tục hóa bắt đầu với vai trò tương đối nhỏ của nhà thờ trong thời kỳ thuộc địa, so với các bộ phận khác củađế quốc Tây Ban Nha. Sau khi độc lập, ý tưởng chống đối ảnh hưởng của tôn giáo đối với chính quyền lan rộng tới Uruguay, đặc biệt là từPháp, tiếp tục làm xói mòn ảnh hưởng của nhà thờ đối với chính phủ.[72] Năm 1837, hôn nhân dân sự đã được công nhận và năm 1861 nhà nước tiếp quản các hoạt động của các nghĩa trang nhân dân vốn do nhà thờ đảm trách. Trong năm 1907, ly hôn đã được hợp pháp hóa và năm 1909, tất cả các chương trình giáo dục giảng dạy tôn giáo đã bị cấm tại tất cả các trường công lập nhà nước. Dưới ảnh hưởng của các cải cách tự do, do nhà lãnh đạo Colorado José Batlle y Ordóñez (1903-1911) đề xướng, một bản Hiến pháp mới đã được ban hành năm 1997 đã tách hoàn toàn ảnh hưởng của nhà thờ đối với nhà nước.[73]
Có khoảng 2,3 triệu người Công giáo Rôma trong cả nước. Có 9giáo phận trực thuộctổng giáo phậnMontevideo; Chủ tịch Hội đồng Giám mục Uruguay hiện nay lagTổng giám mục Nicolas Cotugno Fanizzi, người được bổ nhiệm vào tháng 12 năm 1998. Các vị thánh bảo trợ của Uruguay là Maria, hiện được tôn kính tại Vương cung thánh đường Nhà thờ Florida.[74]
Hồi giáo ở Uruguay ước tính có từ 300 đến 400 người, đại diện cho 0,01 phần trăm dân số. Có hai trung tâm Hồi giáo, tại Montevideo.[75]
Hiện nay, có từ 20.000-25.000 ngườiDo Thái giáo sống ở Uruguay, với 95% cư trú tại Montevideo. Có một cộng đồng nhỏ ởPaysandú. Khoảng 75% trong số đó là nhánh Do Thái giáo Ashkenazi và 11% thuộc nhánh Sephardi. Đến năm 2003, có 20giáo đường Do Thái, nhưng chỉ có sáu trong số đó tổ chức các buổi lễ Shabbat hàng tuần.
Đức tinBahá'í được truyền bá đến Uruguay bởiAbdu'l-Baha, một trong những người đứng đầu tôn giáo này trong năm 1916.[76] Hội đồng tin thần Bahá'í địa phương đầu tiên tại Montevideo được bầu vào năm 1942. Năm 1961, Hội đồng tinh thần Bahá'í Uruguay được thiết lập và tới năm 1963 đã có ba Hội đồng tinh thần Bahá'í địa phương. Năm 2001 có khoảng 4.000 tín đồ Baha'is tại Uruguay và đến năm 2005, đã tăng lên 7.300 người.[77]
Khoa Y Đại học Cộng hòa, được thành lập vào năm 1849
Giáo dục tại Uruguay là thế tục, miễn phí và bắt buộc trong 14 năm, bắt đầu từ 4 tuổi.[78][79] Hệ thống giáo dục được chia thành sáu bậc: mầm non (3–5 tuổi), tiểu học (6–11 tuổi), trung học cơ sở (12–14 tuổi), trung học phổ thông (15–17 tuổi), đại học (18 tuổi trở lên) và giáo dục sau đại học.[79] Giáo dục công lập do ba cơ quan quản lý: Bộ Giáo dục và Văn hóa quyết định chính sách quốc gia về giáo dục; Cục Quản lý giáo dục công lập nhà nước quản lý bậc mầm non đến trung học; và Đại học Cộng hòa là trường đại học lâu đời nhất, lớn nhất.[79]
José Enrique Rodó (1871 - 1917) nhà văn thuộc chủ nghĩa hiện đại, được coi là biểu tượng văn học nổi bật nhất của Uruguay.[80] Tác phẩmAriel (1900) của ông đặt vấn đề gìn giữ các giá trị tâm linh trong khi theo đuổi vật chất và tiến bộ kĩ thuật.[80]
Đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay từng vô địchFIFA World Cup 2 lần: lần thứ nhất tại sân nhà và là kì World Cup đầu tiên năm1930 và lần thứ hai đánh bại Brazil tại trận chung kết ngay tại sân của họ năm1950.[84] Số lượng chức vô địch của Uruguay tạiCopa América lớn hơn bất kì nước nào khác: Chức vô địch năm 2011 đánh giấu lần thứ 15 đăng quang của họ trên đấu trường bóng đá châu lục. Uruguay còn là quốc gia ít dân nhất từng vô địch World Cup.[84] Mặc dầu Uruguay đạt được những thành công ban đầu, họ bỏ lỡ 3 trong 4 kì World Cup từ 1994 đến 2006.[84] Uruguay có màn trình diễn đáng được biểu dương ởFIFA World Cup 2010 khi họ vào tới vòng bán kết sau 40 năm chờ đợi. Trong giải đấu này, cầu thủDiego Forlán được trao giải Quả bóng vàng cho cầu thủ xuất sắc nhất giải.[85]
^Tiếng Tây Ban Nha chưa bao giờ được quy định là ngôn ngữ chính thức trong hiến pháp hoặc bất cứ văn bản pháp luật nào, nhưng trên thực tế được chính phủ, xã hội sử dụng như thể là ngôn ngữ chính thức.
^Crow, John A. (1992).The Epic of Latin America (ấn bản thứ 4). Berkeley: University of California Press. tr. 457.ISBN978-0-520-07723-2.In the meantime, while the crowd assembled in the plaza continued to shout its demands at the cabildo, the sun suddenly broke through the overhanging clouds and clothed the scene in brilliant light. The people looked upward with one accord and took it as a favorable omen for their cause. This was the origin of the ″sun of May″ which has appeared in the center of the Argentine flag and on the Argentine coat of arms ever since.
^Kopka, Deborah (2011).Central & South America. Dayton, OH: Lorenz Educational Press. tr. 5.ISBN978-1-4291-2251-1.The sun's features are those ofInti, theIncan sun god. The sun commemorates the appearance of the Sun through cloudy skies on May 25, 1810, during the first mass demonstration in favor of independence.
^Rex A. Hudson; Sandra W. Meditz, biên tập (1990)."Caudillos and Political Stability (Chapter 9)".Uruguay: A Country Study. Washington DC: Library of Congress Country Studies. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
^Lỗi chú thích: Thẻ<ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênLewis
^abRex A. Hudson; Sandra W. Meditz, biên tập (1990)."Modern Uruguay, 1875–1903 (Chapter 10)".Uruguay: A Country Study. Washington DC: Library of Congress Country Studies. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2011.
^Lỗi chú thích: Thẻ<ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có têncs
^abcde"Business Guide"(PDF). Uruguay XXI.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
^abKorzeniak, José (2001).Primer curso de Derecho Público (bằng tiếng Tây Ban Nha) (ấn bản thứ 3). Montevideo: Fundación de Cultura Universitaria. tr. 443–450.ISBN9974203775.
^"Ley N° 15750".www.impo.com.uy. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2024.
^"Juzgados y tribunales".www.poderjudicial.gub.uy (bằng tiếng Tây Ban Nha).Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2025. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2025.
^Unidades Geoestadísticas (UGeo) – Uruguay; División Servicios Técnicos, Unidad de Cartografía (2011), "Definiciones geoestadísticas utilizadas en el del Censo de 2004 Fase I; y del Censo de 2011",Mapas de Unidades Geoestadísticas 2004 (bằng tiếng Tây Ban Nha), Instituto Nacional de Estadística, tr. 2,lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2013.(Direct PDF file download)
^"Cometidos".Ministerio de Relaciones Exteriores (bằng tiếng Tây Ban Nha).Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
^Bizzozero Revelez, Lincoln (2010).Uruguay y los procesos de integración regional: Trayectoria, cambios y debates [Uruguay and regional integration processes: Trajectory, changes and debates] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Porto Alegre: Civitas - Revista de Ciências Sociais. tr. 105.ISSN1519-6089.
^"Políticas e historia".Embajada de Estados Unidos en Uruguay (bằng tiếng Tây Ban Nha).Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2024.
^Lỗi chú thích: Thẻ<ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có têndept-state4
^abcLỗi chú thích: Thẻ<ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênbritannica2
^Genta Dorado, Gustavo (tháng 3 năm 1993).La Colectividad Japonesa en Uruguay (bằng tiếng Tây Ban Nha).Montevideo: Ediciones de la Crítica. tr. 43–46.OCLC30613716.