Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

USSStickell (DD-888)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục USSStickell (DD-888) ngoài khơi Xưởng hải quân Mare Island, ngày 25 tháng 9 năm 1950.
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọiUSSStickell (DD-888)
Đặt tên theoJohn H. Stickell
Xưởng đóng tàuConsolidated Steel Corporation,Orange, Texas
Đặt lườn5 tháng 1 năm1945
Hạ thủy16 tháng 6 năm1945
Người đỡ đầucô Sue Stickell
Nhập biên chế31 tháng 10 năm1945
Tái biên chế2 tháng 9 năm1953
Xuất biên chế
Xếp lớp lại
Xóa đăng bạ1 tháng 7 năm1972
Danh hiệu và phong tặng7 ×Ngôi sao Chiến trận
Số phậnĐược chuyển choHy Lạp,1 tháng 7 năm1972
Hy Lạp
Tên gọiHSKanaris (D212)
Đặt tên theoKonstantinos Kanaris
Trưng dụng1 tháng 7 năm1972
Nhập biên chế1 tháng 7 năm1972
Xuất biên chế15 tháng 9 năm1993
Xóa đăng bạ1994
Số phậnBán để tháo dỡ,2002
Đặc điểm khái quát
Lớp tàuLớp tàu khu trụcGearing
Trọng tải choán nước
  • 2.616 tấn Anh (2.658 t) (tiêu chuẩn);
  • 3.460 tấn Anh (3.520 t) (đầy tải)
Chiều dài390,5 ft (119,0 m)
Sườn ngang40,9 ft (12,5 m)
Mớn nước14,3 ft (4,4 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số General Electric;
  • 4 × nồi hơi;
  • 2 × trục;
  • công suất 60.000 shp (45.000 kW)
Tốc độ36,8hải lý trên giờ (68,2 km/h; 42,3 mph)
Tầm xa4.500 nmi (8.300 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa350
Vũ khí
  • Ban đầu:
  • Sau nâng cấp FRAM:
    • 4 × pháo 5 in (127 mm)/38 caliber (2×2)
    • 1 × dàn phóng tên lửa chống ngầmRUR-5 ASROC MK112 (8 nòng)
    • 6 × ống phóng ngư lôi 12,75 in (324 mm) (2×3) chongư lôi Mark 44/Mark 46
    • 1 × đường ray thả mìn sâu
  • Kanaris:
    • 4 × pháo 5 in (127 mm)/38 caliber (2×2)
    • 1 × dàn phóng tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC MK112 (8 nòng)
    • 6 × ống phóng ngư lôi 12,75 in (324 mm) (2×3) cho ngư lôi Mark 44/Mark 46]]
    • 1 × đường ray thả mìn sâu
    • 1 × pháo tự độngOTO Melara 76 mm/62 cal. đa dụng
    • 4 × tên lửa đối hạmRGM-84 Harpoon (2×2)
Máy bay mang theo2 ×máy bay trực thăngGyrodyne QH-50 DASH (1963-1976)

USSStickell (DD-888) là mộttàu khu trụclớpGearing đượcHải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuốiChiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ được đặt theo tênĐại úy Hải quânJohn H. Stickell (1914-1943), phi công đã tử thương trong phi vụ ném bom tạiđảo san hô vòng Jaluit thuộcquần đảo Marshall, và được truy tặngHuân chương Chữ thập Hải quân.[1] Hoàn tất khi chiến tranh đã kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạnChiến tranh Lạnh,Chiến tranh Triều TiênChiến tranh Việt Nam cho đến khi ngừng hoạt động năm1972. Nó được chuyển choHy Lạp và tiếp tục phục vụ cùngHải quân Hy Lạp như là chiếcHSKanaris (D212) (tiếng Hy Lạp: Φ/ΓΚανάρης) cho đến năm1993. Con tàu bị bán để tháo dỡ vào năm2002.Stickell đã được tặng thưởng sáuNgôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trongChiến tranh Triều Tiên, rồi thêm một Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động trong cuộcChiến tranh Việt Nam.

Thiết kế và chế tạo

[sửa |sửa mã nguồn]

Stickell được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngConsolidated Steel CorporationOrange, Texas vào ngày5 tháng 1 năm1945. Nó được hạ thủy vào ngày16 tháng 6 năm1945; được đỡ đầu bởi cô Sue Stickell, và nhập biên chế vào ngày31 tháng 10 năm1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung tá Hải quân Francis E. Fleck.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa |sửa mã nguồn]

1945 - 1950

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi nhập biên chế,Stickell được phân vềHạm đội Đại Tây Dương, và hoạt động dưới quyền Tư lệnh Huấn luyện Đổ bộ tạiGalveston, Texas trong vòng một tháng, từ ngày10 tháng 12 năm1945 đến ngày11 tháng 1 năm1946. Sau đó nó tiến hành chạy thử máy và huấn luyện tại khu vựcvịnh Guantánamo, Cuba trước khi đi đếnCharleston, South Carolina vào ngày11 tháng 3 để sửa chữa sau chạy thử máy. Con tàu chuyển đếnNorfolk, Virginia vào ngày21 tháng 4, và cho đến ngày6 tháng 5 đã hỗ trợ hoạt động huấn luyện chuẩn nhận chotàu sân bayKearsarge (CV-33). Sau đó nó hộ tốngKearsarge đi đến vịnh Guantánamo, và từ đây đi đến vùngkênh đào Panama. Nó quay trở về Norfolk vào ngày13 tháng 6.[1]

Stickell khởi hành hai ngày sau đó để đi sang vùng bờ Tây, băng qua kênh đào Panama và đi đến vào ngàySan Diego,California29 tháng 6, nơi nó gia nhập Đội khu trục 11. Trong gần năm năm tiếp theo, nó đã thực hiện ba chuyến đi sang khu vực Viễn Đông để phục vụ cùngĐệ Thất hạm đội. Trong những chuyến đi này con tàu đã viếng thămPhilippines,quần đảo Mariana,Nhật Bản,BắcNam Triều Tiên,Trung QuốcOkinawa. Xen kẻ giữa những lượt phục vụ này, nó hoạt động dọc theo vùng bờ Tây và vùng biểnHawaii, thực hành huấn luyện và tập trận hạm đội cũng như được bảo trì.[1]

Chiến tranh Triều Tiên

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất việc đại tu tạiXưởng hải quân Mare Island vào ngày6 tháng 11,1950,Stickell cùng với Đội khu trục 52 lên đường đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương để tham gia vàp cuộcChiến tranh Triều Tiên. Nó đi đếnSasebo, Nhật Bản vào ngày27 tháng 11, rồi gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 77 ba ngày sau đó và đi sang vùng chiến sự. Nó hoạt động cùng với các đội đặc nhiệm tàu sân bay tại khu vực bờ biển phía Đông và Nambán đảo Triều Tiên, phục vụ hộ tống và canh phòng máy bay cho cáctàu sân bay, thực tậpchống tàu ngầm ngoài khơiYokosuka, bắn phá bờ biển khu vựcSongjin-Wonsan và tuần tra ngăn chặn tàu bè đối phương tại các vùng biển Shingjin, Yong-do vàChongjin. Nó cũng hỗ trợ cho việc đổ bộ các đội biệt kíchHàn Quốc vào lãnh thổ đối phương và đã cứu vớt ba phi công tàu sân bay bị rơi trên biển. Hoàn tất lượt phục vụ đầu tiên trong chiến tranh vào ngày20 tháng 7,1951, nó lên đường quya trở về nhà, về đến San Diego, California vào ngày4 tháng 8.[1]

Stickell ở lại vùng bờ Tây trong hơn nữa năm tiếp theo, hoạt động huấn luyện ngoài khơi San Diego. Nó khởi hành vào ngày26 tháng 1,1952 để đi sang Viễn Đông, và sau khi ghé qua Yokosuka từ ngày19 đến ngày23 tháng 2, con tàu tiếp tục tham gia hoạt động tác chiến tại vùng chiến sự. Nó hoạt động cùng Lực lượng Đặc nhiệm 77 ngoài khơi bờ biển Triều Tiên từ ngày23 tháng 2 đến ngày19 tháng 3, và đã thực hiện ba lượt bắn phá bờ biển: ngoài khơi Yong-do vào ngày28 tháng 2 phối hợp cùng vớitàu tuần dương hạng nặngRochester (CA-124); tại khu vực chiến tuyến vào ngày5 tháng 3; và ngoài khơi Singchong-Ni vào ngày11 tháng 3 phối hợp cùng với [[tàu tuần dương hạng nặngSaint Paul (CA-73). Vào ngày19 tháng 3, nó cùng Đội khu trục 52 được điều động sang phục vụ cùng Đội đặc nhiệm 95.2, Lực lượng Phong tỏa và Hộ tốngLiên Hợp Quốc. Đảm trách vai trò bắn phá và tuần tra, con tàu không chỉ tham gia phong tỏaHŭngnam, mà còn phục vụ bắn hải pháo can thiệp và bắn phá bờ biển đối phương.[1]

Sau đợt bắn phá cảng Wonsan vào ngày31 tháng 3,Stickell gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 77 vào ngày1 tháng 4 và cùng lực lượng rút lui về Yokosuka. Nó ở lại cảng Yokosuka cho đến giữatháng 4, rồi tiếp tục hỗ trợ cho các hoạt động không kích và bắn phá bờ biển. Nó đã vào ụ tàu tại cảng Yokosuka để sửa chữa từ ngày29 tháng 5 đến ngày18 tháng 6, rồi tiếp tục hoạt động dọc bờ biển phía Đông bán đảo Triều Tiên, bao gồm một cuộc đổ bộ ban đêm tại khu vực phụ cận Pohang Dong. Nó cùng Đội khu trục 52 rời khu vực vào ngày23 tháng 6 để hoạt động huấn luyện tạivịnh Buckner, Okinawa, rồi quay trở lại Yokosuka vào ngày5 tháng 7. Con tàu khởi hành vào ngày hôm sau để đi sangHong Kong và hoạt động tuần tra tạieo biển Đài Loan. Nó gặp gỡ Đội tàu sân bay 3 vào ngày14 tháng 7, rồi cùng Đội đặc nhiệm 50.3 hoạt động tại vùng biển Philippines vàbiển Đông trước khi quay trở lại khu vựcĐài Loan để gia nhập trở lại Lực lượng Đặc nhiệm 77 vào ngày27 tháng 7. Chiếc tàu khu trục tiếp tục hoạt động tại vùng biển Triều Tiên cho đến ngày6 tháng 8, khi nó quay trở về Yokosuka, rồi lên đường bốn ngày sau đó cho hành trình quay trở về Hoa Kỳ.[1]

1953 - 1962

[sửa |sửa mã nguồn]

Stickell đi đến San Diego vào ngày26 tháng 8,1953 và ở lại đây cho đến ngày13 tháng 12, nơi nó được cải biến tạiXưởng hải quân Long Beach thành một tàu khu trục cột mốc radar. Nó được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mớiDDR-888 vào ngày2 tháng 9,1953. Sau khi hoạt động huấn luyện ngoài khơi Long Beach, nó gia nhập Đội khu trục 21 tại San Diego vào ngày18 tháng 1,1954, và chỉ hai ngày sau đó cùng đội của nó lên đường đi sang khu vực Tây Thái Bình Dương. Lượt hoạt động này chủ yếu bao gồm các cuộc thực tập huấn luyện tìm-diệt chống tàu ngầm và tuần tra eo biển Đài Loan. Nó rời Sasebo vào ngày1 tháng 6 cho chặng tiếp theo của hành trình vòng quanh thế giới, và trên đường đi đã viếng thăm Hong Kong,Singapore,Ceylon,Kenya,Nam Phi,BrazilTrinidad. Nó về đếnNorfolk, Virginia vào ngày10 tháng 8,1954, và gia nhập Đội khu trục trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương.[1]

USSStickell vào năm 1958, khi được phối thuộc cùng đội đặc nhiệm củaFranklin D. Roosevelt (CVA-42), ảnh chụp từ chiếc tàu sân bay.

Trong chín năm tiếp theo,Stickell tiếp tục phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương trong vai trò tàu khu trục cột mốc radar. Từ năm1954 đến năm1958 nó trải qua hai chu kỳ huấn luyện toàn diện, bao gồm các đợt đại tu trong ụ tàu, các lượt bố trí sang Địa Trung Hải, ôn tập hhuấn luyện, và tham gia các cuộc tập trận của Hạm đội Đại Tây Dương cũng như trong khuôn khổ KhốiNATO. Con tàu được tăng cường những thiết bị điện tử hiện đại trong đợt đại tu năm1958, rồi không lâu sau đó được trang bị một hệ thống thử nghiệm xử lý và phân tích dữ liệu vũ khí. Chuyến đi kéo dài bảy tháng sang khu vực Địa Trung Hải vào năm1962 được đánh dấu bởi hoạt động xâm nhập vào biểnHắc Hải, vốn được xem là "sân sau" củaLiên Xô.[1]

Vào cuốitháng 10,1962, khi phát hiện raLiên Xô bố trí nhữngtên lửa đạn đạo tầm trung mang đầu đạnhạt nhân tạiCuba, khiến đưa đến vụKhủng hoảng tên lửa Cuba,Tổng thốngJohn F. Kennedy đã ra quyết định "cô lập" hàng hải hòn đảo này nhằm gây áp lực, buộc phía Cộng Sản phải triệt thoái số tên lửa này.Stickell đã được huy động tham gia lực lượng hải quân hoạt động phong tỏa, cho đến khi vụ khủng hoảng được giải quyết bằng thương lượng hòa bình.[1]

1963 - 1965

[sửa |sửa mã nguồn]

Vàotháng 5,1963,Stickell đi vàoXưởng hải quân Philadelphia để trải qua một đợt sửa chữa và nâng cấp trong khuôn khổ Chương trìnhHồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization. Chương trình này nhằm mục đích kéo dài vòng đời hoạt động thêm 10 đến 20 năm, đồng thời nâng cao năng lực tác chiến. Nó rời xưởng tàu với một cầu tàu mới, những thiết bị điện tử,radarsonar hiện đại, trang bị thêm tên lửa chống ngầmRUR-5 ASROC, cùng hầm chứa và sàn đáp để vận hànhmáy bay trực thăng không người lái chống tàu ngầmGyrodyne QH-50 DASH.[1]

Sau khi được xếp lại lớp như một tàu khu trục thông thường và lấy lại ký hiệu lườn cũDD-888,Stickell gia nhập trở lại Hạm đội Đại Tây Dương vào đầu năm1964, được phân về Hải đội Khu trục 12, đặt cảng nhà tạiNewport, Rhode Island và đảm nhiệm vai tròsoái hạm của Đội khu trục 122. Sau một đợt huấn luyện ôn tập trongtháng 4, nó tham gia một hải đội huấn luyện cho học viên sĩ quan thuộcHọc viện Hải quân Hoa Kỳ và đã thực hiện một chuyến đi thực tập sang các cảng thuộc vùng biểnBắc Âu trongtháng 6tháng 7. Sau đó từtháng 8 đếntháng 11, nó phục vụ cùng Lực lượng Chống ngầm Hạm đội Đại Tây Dương; rồi được phái sang hoạt động tại Địa Trung Hải cho đếntháng 3,1965.[1]

Stickell quay trở về Newport, và sangtháng 4 đã đi đến Norfolk để hoàn tất viện trang bị máy bay không người lái DASH. Một cuộc đảo chính của phe cánh Tả xảy ra tạiCộng hòa Dominica vào ngày24 tháng 4,1965, dẫn đến những bất ổn và bạo loạn, đã khiến Hoa Kỳ quyết định can thiệp để duy trì trật tự, đảm bảo an ninh cho công dân Hoa Kỳ, đồng thời với dụng ý ngăn ngừa một chính phủ cộng sản có thể nắm chính quyền như trường hợp củaCuba. Vì vậy, vàotháng 6, chiếc tàu khu trục gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 124 để làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình ngoài khơi thủ đôSanto Domingo để bảo vệ cho việc đổ bộ lực lượngThủy quân Lục chiến. Sau năm tuần lễ hoạt động tuần tra, nó quay trở về xưởng tàu của hãngBethlehem Shipbuilding Corporation tạiBoston,Massachusetts cho một đợt đại tu kéo dài sáu tuần. Vàotháng 10, nó canh phòng ngoài khơi bờ biển Châu Phi để phục vụ cho việc thu hồi tàu không gianGemini 6, tuy nhiên chuyến bay bị hủy bỏ và con tàu quay trở về Newport ngang quaMartinique. Trongtháng 11 và đầutháng 12, nó tham gia cuộc tập trận đổ bộ tạiđảo Vieques gần Puerto Rico, rồi quay trở về Newport.[1]

Việt Nam - 1966

[sửa |sửa mã nguồn]

Cùng với các đơn vị khác thuộc Hải đội Khu trục 12,Stickellkhởi hành từ Newport vào ngày19 tháng 1,1966 để làm nhiệm vụ cùngĐệ Thất hạm đội tại Viễn Đông. Sau khi băng quakênh đào Panama và có các chặng dừng tại San Diego và Trân Châu Cảng, hải đội bắt đầu các hoạt động tác chiến tạibiển Đông trong khuôn khổ cuộcChiến tranh Việt Nam. Chiếc tàu khu trục được phân công nhiệm vụtìm kiếm và giải cứu (SAR: Search and Rescue) và tiếp nhiên liệu trên đường đi cho nhữngmáy bay trực thăng tham gia hoạt động này trongvịnh Bắc Bộ. Nó cũng tham gia hộ tống và canh phòng máy bay cho các tàu sân bay, đặc biệt là vớiRanger (CVA-61); và nhiệm vụ hỗ trợ hải pháo cho các hoạt động tác chiến trên bộ. Trong giai đoạn này nó đã viếng thăm các cảng tại Viễn Đông:Cao Hùng,Đài Loan;Yokosuka, Nhật Bản; căn cứvịnh Subic,Philippines; vàHong Kong, rồi lên đường quay trở về Hoa Kỳ qua ngãkênh đào Suez. Trong hành trình quay trở về nhà nó tiếp tục viếng thămPort Dickson,Malaysia;Kochi,Ấn Độ;Aden;Athens,Hy Lạp;Palma, Mallorca,Tây Ban Nha; vàGibraltar. Con tàu hoàn tất một vòng quanh thế giới khi về đến Newport vào ngày17 tháng 8,1966.[1]

1966 - 1968

[sửa |sửa mã nguồn]

Vàotháng 10,1966,Stickell đi đếnXưởng hải quân Boston để đại tu, và sau khi rời xưởng tàu vàotháng 2,1967 nó hướng sang khu vựcvịnh Guantánamo,Cuba để hoạt động huấn luyện ôn tập. Nó tiếp tục đi sang khu vực thực tập tạiđảo Culebra, Puerto Rico để hoạt động chuẩn nhận hỗ trợ hải pháo trước khi quay trở về cảng. Sau khi được bảo trì, con tàu lên đường cho một đợt thực tập chống tàu ngầm kéo dài bốn tháng tại vùng biển Bắc Âu, và đã tập trận phối hợp cùng tàu chiến và máy bay thuộc hải quân các nướcAnh,Na Uy,Đan Mạch,PhápTây Đức. Trong dịp này nó cũng đã viếng thăm các cảngBergen,Na Uy;Aarhus,Đan Mạch;Sundsvall,Thụy Điển; vàThurso,Scotland. Sau đó nó đi sang Địa Trung Hải để gia nhập cùng Đệ Lục hạm đội, và hoạt động cùng tàu sân bayEssex (CVS-9) và các tàu khu trục khác trong thành phần một đội tìm-diệt chống tàu ngầm. Con tàu cũng đã viếng thăm các cảngNaples,Ý;Valletta,Malta; vàPalermo,Sicily trước khi quay trở về Hoa Kỳ vào ngày19 tháng 9,1967.[1]

Cho đến cuối năm1967,Stickell tiếp tục tham gia thêm hai cuộc tập trận chống tàu ngầm: cuộc Tập trận Canus Silex phối hợp giữa Hoa Kỳ và Canada, và cuộc Tập trận Fixwex India. Vàotháng 2,1968, nó lên đường đi sang vùng biển Caribe để tham gia cuộc Tập trận Springboard 68, và sau đó phục vụ như tàu huấn luyện cho Trường Sonar Hạm đội tạiKey West,Florida. Khi quay trở về cảng nhà, trong những tháng tiếp theo nó chuẩn bị cho lượt biệt phái phục vụ tiếp theo tại nước ngoài.[1]

Stickell khởi hành từ Newport vào ngày2 tháng 7,1968 cho một chuyến đi kéo dài sáu tháng và viếng thăm 13 nước, trong khuôn khổ lượt hoạt động cùngLực lượng Trung Đông. Con tàu đã viếng thăm các cảngSan Juan, Puerto Rico;Recife,Brazil;Luanda,Angola;Lourenço Marques,Mozambique;Port Louis,Mauritius; Kochi, Ấn Độ;Karachi,Pakistan;Bahrain;Massawa,Ethiopia;Mombasa,Kenya;Assab,Ethiopia;Bandar AbbasBushehr,Iran;Kuwait; vàDakar,Senegal. Đang khi ở lại khu vựcvịnh Ba Tư, nó tham gia cuộc tập trận quốc tế Middlinx XL phối hợp cùng hải quân các nước Anh vàIran. Con tàu quay trở về nhà vào ngày10 tháng 1,1969.[1]

1969 - 1972

[sửa |sửa mã nguồn]

Trong ba năm tiếp theo,Stickell luân phiên các hoạt động dọc theo vùng bờ Đông Hoa Kỳ với các lượt thực hành huấn luyện tàu vùngbiển Caribe. Con tàu được phái sang Địa Trung Hải một lần nữa từtháng 9,1969 đến cuốitháng 3,1970. Sau khi quay trở về Norfolk để nghỉ ngơi và bảo trì, nó lên đường điDavisville, Rhode Island vào ngày18 tháng 5 để sửa chữa lườn tàu trong một tháng, và quay trở lại Norfolk vào ngày20 tháng 6. Ngoại trừ hai lượt hoạt động cùng tàu sân bayJohn F. Kennedy (CVA-67) trongtháng 7, chiếc tàu khu trục ở lại cảng này cho đến ngày9 tháng 11, khi nó đi đếnYorktown, Virginia để chất dỡ đạn dược, rồi đi đếnNewport News, Virginia để được đại tu từ ngày13 tháng 11 đến ngày7 tháng 12. Chiếc tàu khu trục lên đường vào ngày7 tháng 1,1971 cho một đợt phục vụ khác cùng Lực lượng Trung Đông tại Ấn Độ Dương. Nó đã viếng thăm Brazil, Angola, Mozambique, Madagascar, Mauritius, Bahrein, Saudi Arabia, Ethiopia, Iran, Ấn Độ, Pakistan, Kenya và Senegal trước khi quay trở về Norfolk vào ngày29 tháng 6.[1]

Stickell ở lại khu vựcVirginia Capes trong nữa cuối năm1971 và nữa đầu năm1972 cho các công việc chuẩn bị trước khi ngừng hoạt động và chuyển giao choHy Lạp. Con tàu được cho xuất biến chế tại đây vào ngày1 tháng 7,1972, đồng thời được rút tên khỏi danh sáchĐăng bạ Hải quân trong ngày hôm đó và được bàn giao cho chính phủ Hy Lạp.[1]

HSKanaris (D212)

[sửa |sửa mã nguồn]
Xem thêm:Kanaris (tàu chiến Hy Lạp)
Tàu khu trục Hy LạpKanaris (D-212)
Tàu khu trục Hy LạpKanaris (D-212)

Con tàu phục vụ cùngHải quân Hoàng gia Hy Lạp như là chiếcHSKanaris (D212) (tiếng Hy Lạp: Φ/ΓΚανάρης) tên được đặt theo Đô đốcKonstantinos Kanaris (1793–1877), người từng tham gia cuộcChiến tranh Độc lập Hy Lạp và sau này trở thànhThủ tướng Hy Lạp. Lễ nhập biên chế được tổ chức tạiNorfolk,Virginia, Hoa Kỳ vào ngày1 tháng 7,1972, và con tàu đặt dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân K. Zografos.[1]

Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện, nó lên đường quay trở về Hy Lạp, đến nơi vào ngày29 tháng 3,1973, và tiếp tục phục vụ thêm 20 năm trong thành phần Chỉ huy Lực lượng Khu trục. Nó thực hiện nhiều chuyến tuần tra trong vùngbiển Aegean, tham gia các cuộc tập trận của Hy Lạp và trong khuôn khổKhối NATO, và đã đối đầu với lực lượngThổ Nhĩ Kỳ trong các vụThổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp năm1974tranh chấp biển Aegean năm1987. Con tàu được cho xuất biên chế vào ngày15 tháng 9,1993 và bị tháo dỡ năm2002.[1]

Phần thưởng

[sửa |sửa mã nguồn]

Stickell đã được tặng thưởng sáuNgôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trongChiến tranh Triều Tiên, rồi thêm một Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động trong cuộcChiến tranh Việt Nam.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^abcdefghijklmnopqrstu"Stickell (DD-888)".Dictionary of American Naval Fighting Ships. Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2021.

Thư mục

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềUSS Stickell (DD-888).
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềHS Kanaris (D-212).


Hoàn tất
Bị hủy bỏ
Các bên sử dụng khác
 Hải quân Argentina
lớpComodoro Py
 Hải quân Brasil
 Trung Hoa Dân Quốc
LớpChao Yang
 Hải quân Ecuador
 Hải quân Hy Lạp
 Hải quân Đế quốc Iran
  • (Kenneth D. BaileyBordelon được Hải quân Iran mua làm nguồn phụ tùng)
 Hải quân Đại Hàn Dân Quốc
LớpChungbuk
 Hải quân México
LớpQuetzalcóatl
 Hải quân Pakistan
LớpAlamgir
 Hải quân Tây Ban Nha
 Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
LớpYücetepe
LớpAlçıtepe
Cổng thông tin:
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=USS_Stickell_(DD-888)&oldid=71980789
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp