Tàu ngầmU-751 trong cảng St. Nazaire, ngày 15 tháng 6, 1942 | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-751 |
| Đặt hàng | 9 tháng 10,1939 |
| Xưởng đóng tàu | Kriegsmarinewerft,Wilhelmshaven |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 134 |
| Đặt lườn | 2 tháng 1,1940 |
| Hạ thủy | 16 tháng 11,1940 |
| Nhập biên chế | 31 tháng 1,1941 |
| Tình trạng | Bị máy bayKhông quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu đánh chìm phía Tây BắcTây Ban Nha,17 tháng 7,1942[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 30 807 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-751 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được bảy chuyến tuần tra, đánh chìm được năm tàu buôn với tổng tải trọng 21.412 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 11.000 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng 8.096 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-751 bị cácmáy bay ném bomWhitley vàLancaster củaKhông quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu đánh chìm trong biểnĐại Tây Dương về phía Tây BắcTây Ban Nha vào ngày17 tháng 7,1942.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-751 được đặt hàng vào ngày9 tháng 10,1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàuKriegsmarinewerft ởWilhelmshaven vào ngày2 tháng 1,1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày16 tháng 11,1940,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày31 tháng 1,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quânGerhard Bigalk.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 7,U-751 tiếp tục nằm trong thành phần đơn vị này để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[1]
U-751 khởi hành từ cảngKiel, Đức vào ngày3 tháng 6,1941 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại vùng biển giữaBắc Đại Tây Dương.[5] Vào ngày14 tháng 6, nó phóngngư lôi tấn công chiếc tàu buôn AnhSt. Lindsay 5.370 GRT, vốn tách rời khỏi Đoàn tàu OG-64, và đánh chìm mục tiêu ở vị trí khoảng 580 nmi (1.070 km) về phía ĐôngSt. John's,Newfoundland.[6] Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngSt. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương củaPháp vào ngày5 tháng 7.[3] St. Nazaire trở thành căn cứ hoạt động chính củaU-751 cho đến khi nó bị mất.[3]

U-751 xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày14 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ bảy, cũng là chuyến cuối cùng, và đã hướng ra Đại Tây Dương.[7] Chỉ ba ngày sau đó, nó vẫn còn đang trong vùng biển phía Tâyvịnh Biscay khi bị máy bay củaKhông quân Hoàng gia Anh phát hiện.Mìn sâu thả từ mộtmáy bay ném bomArmstrong Whitworth Whitley thuộc Liên đội 502 đã gây hư hại cho chiếc tàu ngầm đến mức nó mất kiểm soát và không thể lặn, và sau đó một chiếcAvro Lancaster thuộc Liên đội 61 đã đánh chìm con tàu ở vị trí khoảng 200 nmi (370 km) về phía Tây Bắcmũi Ortegal,Tây Ban Nha, tại tọa độ45°14′B12°22′T / 45,233°B 12,367°T /45.233; -12.367.[1][8] Toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn củaU-751 đều đã tử trận.[1]
U-751 từng tham gia sáubầy sói:
U-751 đã đánh chìm được năm tàu buôn với tổng tải trọng 21.412 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 11.000 tấn, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn tải trọng 8.096 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[9] |
|---|---|---|---|---|
| 14 tháng 6, 1941 | St. Lindsay | 5.370 | Bị đánh chìm | |
| 21 tháng 12, 1941 | HMS Audacity | 11.000 | Bị đánh chìm | |
| 2 tháng 2, 1942 | Corilla | 8.096 | Bị hư hại | |
| 4 tháng 2, 1942 | Silveray | 4.535 | Bị đánh chìm | |
| 7 tháng 2, 1942 | Empire Sun | 6.952 | Bị đánh chìm | |
| 16 tháng 5, 1942 | Nicarao | 1.445 | Bị đánh chìm | |
| 19 tháng 5, 1942 | Isabela | 3.110 | Bị đánh chìm |