Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-735 |
| Đặt hàng | 10 tháng 4,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Schichau-Werke,Danzig |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 1532 |
| Đặt lườn | 29 tháng 11,1941 |
| Hạ thủy | 10 tháng 10,1942 |
| Nhập biên chế | 28 tháng 12,1942 |
| Tình trạng | Bị máy bayKhông quân Hoàng gia Anh đánh chìm ngoài khơiHorten,Na Uy,28 tháng 12,1944[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 49 502 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: | Không |
| Chiến thắng: | Không |
U-735 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1942, nó chỉ đảm nhiệm vai trò huấn luyện tại khu vựcbiển Baltic, trước khi bịmáy bay ném bomAvro Lancaster củaKhông quân Hoàng gia Anh némbom đánh chìm ngoài khơiHorten,Na Uy vào ngày28 tháng 12,1944.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[3] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[3]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[3]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[3]
U-735 được đặt hàng vào ngày10 tháng 4,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngSchichau-Werke ởDanzig vào ngày29 tháng 11,1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày10 tháng 10,1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày28 tháng 12,1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Hans-Joachim Börner.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-735 được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 8,1944 để tiếp tục phục vụ huấn luyện, đặt căn cứ tạiHorten,Na Uy cho đến khi bị mất.[1]
Vào ngày28 tháng 12, Bộ chỉ huy Ném bomKhông quân Hoàng gia Anh huy động 57máy bay ném bomAvro Lancaster vào chiến dịch xóa sổ các căn cứ tàu ngầm Đức Quốc xã tại Na Uy. Khi có báo động không kích, chiếc tàu ngầm rời cảng cho dù bị chậm trễ do gặp trục trục trặn khi khởi độngđộng cơ diesel. Nó bị đánh trúng một quả bom và đắm tại tọa độ59°28′B10°28′Đ / 59,467°B 10,467°Đ /59.467; 10.467, bên ngoài cảng Horten về phía Nam đảo Mølen.[1] 26 người trong số thành viên thủy thủ đoàn củaU-735 đã tử trận, và thêm mười người mất tích bao gồm Trung úy Börner hạm trưởng. Chỉ có một người duy nhất sống sót, cùng với mười người khác đang nghỉ phép tại Horten.[1]
Thợ lặn củaHải quân Hoàng gia Na Uy đã tìm thấy xác tàu đắm củaU-735 ở độ sâu 190 m (620 ft) vào năm 1999.[4]