Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-704 |
| Đặt hàng | 9 tháng 10,1939[1] |
| Xưởng đóng tàu | HC Stülcken & Sohn,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 763 |
| Đặt lườn | 26 tháng 8,1940[1] |
| Hạ thủy | 28 tháng 8,1941[1] |
| Nhập biên chế | 18 tháng 11,1941[1] |
| Tình trạng | Bị đánh đắm tạiBremen-Vegesack,30 tháng 4,1945[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 43 929 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | 1 tàu buôn bị đánh chìm (6.942 GRT)[1] |
U-704 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được năm chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 6.942 GRT.U-704 đã sống sót cho đến cuối Thế Chiến II, trước khi bị đánh đắm tạiBremen-Vegesack vào ngày30 tháng 4,1945 trong khuôn khổChiến dịch Regenbogen để tránh bị lọt vào taylực lượng Đồng Minh. Xác tàu được trục vớt và tháo dỡ năm1947.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-704 được đặt hàng vào ngày9 tháng 10,1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngHC Stülcken & Sohn ởHamburg vào ngày26 tháng 8,1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày28 tháng 8,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày18 tháng 11,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Horst Wilhelm Kessler.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-704 được điều sangChi hạm đội U-boat 7 từ ngày1 tháng 7,1942 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]
U-704 xuất phát từ cảngKiel, Đức vào ngày30 tháng 6,1942 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh, và hoạt động tại khu vựcBắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland và phía ĐôngNewfoundland,Canada.[5] Vào ngày26 tháng 7, nó phóngngư lôi kết liễu chiếc tàu buôn AnhEmpire Rainbow 6.942 GRT, vốn thuộc Đoàn tàu ON-113 và đã bị hư hại sau khi trúng ngư lôi phóng từ tàu ngầmU-607 chỉ 15 phút trước đó, ở vị trí về Đôngmũi Race, Newfoundland.[6][7]U-704 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngSt. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày16 tháng 8.[3]
Chuyến tuần tra tiếp theo củaU-704, cùng xuất phát và kết thúc tại St. Nazaire, kéo dài từ ngày9 đến ngày15 tháng 9 và diễn ra trongvịnh Biscay mà không đánh chìm được mục tiêu nào.[8]
Chiếc tàu ngầm khởi hành từ St. Nazaire vào ngày5 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ ba, và đã hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Newfoundland.[9] Vào ngày9 tháng 11, nó phóng ngư lôi tấn công chiếc tàu chở quân AnhQueen Elizabeth, tự nhận đã đánh trúng đích, nhưng con tàu Anh không chịu hư hại.[10]U-704 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngLa Pallice tạiLa Rochelle, Pháp vào ngày23 tháng 11.[3]
U-704 xuất phát từ La Pallice vào ngày7 tháng 1,1943 cho chuyến tuần tra thứ tư để tiếp tục hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Đông Nam Greenland. Nó quay trở về căn cứ St. Nazaire vào ngày12 tháng 2.[11]
Trong chuyến tuần tra thứ năm, cũng là chuyến cuối cùng,U-704 khởi hành từ St. Nazaire vào ngày14 tháng 3, và băng ngược khe GI-UK để quay trở về vùngbiển Na Uy, đi đến cảngBergen, Na Uy vào ngày5 tháng 4.[12]
Sau chuyến tuần tra cuối cùng,U-704 được rút về làm nhiệm vụ huấn luyện các thủy thủ đoàn tàu U-boat tương lai trongbiển Baltic, lần lượt trong thành phầnChi hạm đội U-boat 21 từ ngày1 tháng 4,[1]Chi hạm đội U-boat 24 từ ngày1 tháng 6,[1]Chi hạm đội U-boat 23 từ ngày1 tháng 9,[1] và cuối cùng trở lại Chi hạm đội U-boat 24 từ ngày1 tháng 8,1944 cho đến hết chiến tranh.[1]
Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc,U-704 bị đánh đắm tạiBremen-Vegesack,Bremen vào ngày30 tháng 4,1945 trong khuôn khổChiến dịch Regenbogen để tránh bị lọt vào taylực lượng Đồng Minh. Xác tàu được trục vớt và tháo dỡ năm1947.[1]
U-704 từng tham gia bảybầy sói:
U-704 đã đánh chìm được một tàu buôn tổng tải trọng 6.942 GRT :
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[13] |
|---|---|---|---|---|
| 26 tháng 7, 1942 | Empire Rainbow | 6.942 | Bị đánh chìm |