Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-652 |
| Đặt hàng | 9 tháng 10,1939 |
| Xưởng đóng tàu | Howaldtswerke,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 801 |
| Đặt lườn | 5 tháng 2,1940 |
| Hạ thủy | 7 tháng 2,1941 |
| Nhập biên chế | 3 tháng 4,1941 |
| Tình trạng |
|
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 42 644 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-652 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được chín chuyến tuần tra, đánh chìm ba tàu buôn và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 11.333 GRT cùng hai tàu chiến với tổng tải trọng 2.740 tấn, đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 20.835 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-652 bị hư hại nặng do trúngmìn sâu thả từmáy bay ném bom-ngư lôiFairey Swordfish củaHải quân Hoàng gia Anh, nên bị tàu ngầmU-81 phóngngư lôi đánh đắm trongĐịa Trung Hải vào ngày2 tháng 6,1942.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-652 được đặt hàng vào ngày9 tháng 10,1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngHowaldtswerke ởHamburg vào ngày5 tháng 2,1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày7 tháng 2,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày3 tháng 4,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Georg-Werner Fraatz.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 3,U-652 tiếp tục nằm trong thành phần đơn vị này để phục vụ trên tuyến đầu.[1] Nó được điều sangChi hạm đội U-boat 29 từ ngày1 tháng 1,1942 để hoạt động tại khu vựcĐịa Trung Hải cho đến khi bị mất.[1]
Rời cảngKiel, Đức vào giữatháng 6,1941,U-652 di chuyển dọc bờ biểnNa Uy đến Bökfjord (gầnKirkenes ở phía cực Bắc Na Uy) ngang quaHorten vàTrondheim.[3] Nó xuất phát từ Bökfjord vào ngày23 tháng 7 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, và hoạt động trongbiển Barents ngoài khơibán đảo Kola.[5]
Tại đây vào ngày6 tháng 8, chiếc tàu ngầm đã phóngngư lôi tấn công và đánh chìm chiếcthông báo hạmLiên XôPS-70 558 GRT ở vị trí khoảng 7 nmi (13 km) ngoài khơi mũi Teriberka, cáchMurmansk khoảng 50 km (27 nmi) về phía Đông.[6] Đây là chiến công đầu tiên của một tàu ngầm U-boat tại vùngbiển Bắc Cực trong Thế Chiến II.
Chiếc U-boat quay trở lại Kirkenes vào ngày7 tháng 8, rồi lên đường hai ngày sau đó, đi đến Trondheim vào ngày13 tháng 8.[3]
U-652 xuất phát từ cảng Pola vào ngày25 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, và đã quay trở lại hoạt động dọc theo bờ biển Bắc Phi ngoài khơi Libya và Ai Cập.[7] Tại đây vào ngày2 tháng 6, nó trúngmìn sâu thả từ mộtmáy bay ném bom-ngư lôiFairey Swordfish thuộc Liên đội 815Không lực Hải quân Hoàng gia,[8] và bị hư hại nặng đến mức bị tau ngầmU-81 phóng ngư lôi đánh chìm trong vịnh Sollum, tại tọa độ31°55′B25°11′Đ / 31,917°B 25,183°Đ /31.917; 25.183.[1] Toàn bộ 46 thành viên thủy thủ đoàn củaU-652 đều sống sót.[1]
U-652 từng tham gia haibầy sói:
U-652 đã đánh chìm được ba tàu buôn và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 11.333 GRT cùng hai tàu chiến với tổng tải trọng 2.740 tấn, đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 20.835 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[9] |
|---|---|---|---|---|
| 6 tháng 8, 1941 | PS-70 | 558 | Bị đánh chìm | |
| 26 tháng 8, 1941 | HMS Southern Prince | 10.917 | Bị hư hại | |
| 10 tháng 9, 1941 | Tahchee | 6.508 | Bị hư hại | |
| 10 tháng 9, 1941 | Baron Pentland | 3.410 | Bị hư hại | |
| 9 tháng 12, 1941 | Saint Denis | 1.595 | Bị đánh chìm | |
| 19 tháng 12, 1941 | Varlaam Avanesov | 6.557 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 3, 1942 | HMS Heythrop | 1.050 | Bị đánh chìm | |
| 26 tháng 3, 1942 | HMS Jaguar | 1.690 | Bị đánh chìm | |
| 26 tháng 3, 1942 | Slavol | 2.623 | Bị đánh chìm |