Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-647 |
| Đặt hàng | 10 tháng 4,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 623 |
| Đặt lườn | 29 tháng 12,1941 |
| Hạ thủy | 16 tháng 9,1942 |
| Nhập biên chế | 5 tháng 11,1942 |
| Tình trạng | Mất tích trongĐại Tây Dương từ ngày28 tháng 7,1943[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 49 799 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-638 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và không đánh chìm được mục tiêu nào, trước khi mất tích trong vùng biểnBắc Đại Tây Dương từ ngày28 tháng 7,1943.[1] Xác tàu đắm được khám phá vào năm 1977.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-647 được đặt hàng vào ngày10 tháng 4,1941,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày29 tháng 12,1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày16 tháng 9,1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày5 tháng 11,1942[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Willi Hertin.[2]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-647 được điều sangChi hạm đội U-boat 7 từ ngày1 tháng 6,1943 để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[2]
U-647 khởi hành từ cảngKiel, Đức vào ngày22 tháng 7,1943 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh. Nó đã tiến raBắc Hải, rồi tìm cách băng quakhe GI-UK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng qua phía Bắcquần đảo Anh.[6]U-647 báo cáo qua vô tuyến về căn cứ lần cuối cùng vào ngày28 tháng 7 ở vị trí khoảng64°00′B01°30′T / 64°B 1,5°T /64.000; -1.500, và sau đó hoàn toàn mất liên lạc. Con tàu được cho là đã mất với tổn thất toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu.[1][2]
Xác tàu đắm được khám phá vào năm 1977, nằm ở độ sâu 100 m (330 ft) tại tọa độ59°53′30″B2°23′2″T / 59,89167°B 2,38389°T /59.89167; -2.38389. Có thểU-647 đã bị đắm do trúngthủy lôi.[7]