Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-639 |
| Đặt hàng | 20 tháng 1,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 615 |
| Đặt lườn | 31 tháng 10,1941 |
| Hạ thủy | 22 tháng 7,1942 |
| Nhập biên chế | 10 tháng 9,1942 |
| Tình trạng | Bị tàu ngầmLiên XôS-101 đánh chìm trongbiển Kara,28 tháng 8,1943[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 50 196 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-639 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1942, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-639 bị tàu ngầmLiên XôS-101 phóngngư lôi đánh chìm trongbiển Kara vào ngày28 tháng 8,1943.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-639 được đặt hàng vào ngày20 tháng 1,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày31 tháng 10,1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày22 tháng 7,1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày10 tháng 9,1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quânWalter Wichmann.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 5,U-639 được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 4,1943 để hoạt động trên tuyến đầu, rồi lại được điều sangChi hạm đội U-boat 13 từ ngày1 tháng 6,1943 cho đến khi bị mất.[1]
Vào giữatháng 3,1943,U-639 đã lần lượt di chuyển từ cảngKiel, Đức đến các cảngKristiansand,Stavanger vàBergen cùng thuộcNa Uy,[3] rồi khởi hành từ Bergen vào ngày24 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó đã hoạt động trongbiển Na Uy về phía Tây BắcIceland, và kết thúc chuyến tuần tra tại cảngHammefest, Na Uy vào ngày25 tháng 4.[5]
Trong chuyến tuần tra thứ hai diễn ra từ ngày12 tháng 5 đến ngày7 tháng 6,U-639 xuất phát từ Hammefest để hoạt động tại vùng biển chung quanhđảo Bear trước khi đi đếnHarstad.[6] Vào giữatháng 6, chiếc tàu ngầm lần lượt di chuyển đến các cảngNarvik vàTrondheim cùng thuộc Na Uy.[3]
U-639 khởi hành từ Trondhelm vào ngày24 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ ba để hoạt động trongbiển Barents cho đến tận phía Nam quần đảoNovaya Zemlya. Con tàu quay trở lại Harstad vào ngày5 tháng 8.[7]
Vào đầutháng 8,U-639 di chuyển từ Harstad đến Narvik, rồi xuất phát từ đây vào ngày11 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong biển Barents vàbiển Kara. Chiếc tàu ngầm đã rải 24 quảthủy lôi TMB tại vùng cửasông Obi vào ngày21 tháng 8,[8] nhưng đến ngày28 tháng 8 đã bị tàu ngầmS-101 củaHải quân Liên Xô phóngngư lôi đánh chìm trong biển Kara, tại tọa độ76°49′B69°42′Đ / 76,817°B 69,7°Đ /76.817; 69.700.[1][9] Toàn bộ 47 thành viên thủy thủy đoàn củaU-639 đều đã tử trận.[1]
U-639 từng tham gia mộtbầy sói: