Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-609 |
| Đặt hàng | 22 tháng 5,1940 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 585 |
| Đặt lườn | 7 tháng 4,1941 |
| Hạ thủy | 23 tháng 12,1941 |
| Nhập biên chế | 12 tháng 2,1942 |
| Tình trạng | Bịtàu corvetteLobelia (K05) thuộcLực lượng Pháp quốc Tự do đánh chìm trongĐại Tây Dương,6 tháng 2,1943[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 42 154 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | 2 tàu buôn bị đánh chìm (10.288 GRT) |
U-609 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1942, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 10.288 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-609 bịtàu corvetteLobelia (K05) thuộcLực lượng Pháp quốc Tự do thảmìn sâu đánh chìm trongĐại Tây Dương vào ngày6 tháng 2,1943.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-609 được đặt hàng vào ngày22 tháng 5,1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày7 tháng 4,1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày23 tháng 12,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày12 tháng 2,1942[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Klaus Rudloff.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 5,U-609 được điều sangChi hạm đội U-boat 6 từ ngày1 tháng 8,1942 để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[1]
U-609 khởi hành từ cảngKiel, Đức vào ngày16 tháng 7,1942 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữa quần đảoFaroe vàIceland để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại vùng biển về phía Tây Nam Iceland trước khi chuyển sang khu vực giữaBắc Đại Tây Dương.[5] Tại đây vào ngày31 tháng 8, nó tấn công Đoàn tàu SC-97 và đã đánh chìm các tàu buônPanamaCapira 5.625 GRT[6] và tàu buônNa UyBronxville 4.663 GRT.[7] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến căn cứSt. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày10 tháng 9.[3] St. Nazaire trở thành căn cứ hoạt động chính của chiếc tàu ngầm cho đến khi nó bị mất.[3]
U-609 khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày6 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ hai, và đã hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[8] Vào ngày12 tháng 10, nó tìm cách tấn công Đoàn tàu ONS-136, nhưng bị các tàu hộ tống phản công bằngmìn sâu và bị hư hại nặng đến mức phải hủy bỏ cuộc tấn công.[8] Đến ngày17 tháng 10, nó lại bịtàu corvetteHMS Celandine hộ tống cho Đoàn tàu ONS-137 tấn công.[8] Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về cảng St. Nazaire vào ngày22 tháng 10.[3]
Chuyến tuần tra tiếp theo củaU-609 cùng xuất phát và kết thúc tại cảng St. Nazaire, diễn ra từ ngày30 tháng 11 đến ngày23 tháng 12. Chiếc tàu ngầm tiếp tục hoạt động tại Khu vực Tiếp cận phía Tây, nhưng vẫn không đánh chìm được mục tiêu nào.[9]
U-609 khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày16 tháng 1,1943 cho chuyến tuần tra thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, và đã hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[10] Đến ngày6 tháng 2, nó bịtàu corvetteLobelia (K05) thuộcLực lượng Pháp quốc Tự do thảmìn sâu đánh chìm tại tọa độ54°56′B28°11′T / 54,933°B 28,183°T /54.933; -28.183.[1] Toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn củaU-609 đều đã tử trận.[1]
U-609 từng tham gia sáubầy sói:
U-609 đã đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải trọng 10.288 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[11] |
|---|---|---|---|---|
| 31 tháng 8, 1942 | Capira | 5.625 | Bị đánh chìm | |
| 31 tháng 8, 1942 | Bronxville | 4.663 | Bị đánh chìm |