Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-601 |
| Đặt hàng | 22 tháng 5,1940 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 577 |
| Đặt lườn | 10 tháng 2,1941 |
| Hạ thủy | 29 tháng 10,1941 |
| Nhập biên chế | 18 tháng 12,1941 |
| Tình trạng | Bị mộtthủy phi cơCatalinaAnh đánh chìm trongbiển Bắc Cực,25 tháng 2,1944[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 47 254 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | 4 tàu buôn bị đánh chìm (8.869 GRT) |
U-601 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được mười chuyến tuần tra, đánh chìm được bốn tàu buôn với tổng tải trọng 8.869 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-601 bị mộtthủy phi cơPBY Catalina củaKhông quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu đánh chìm trongbiển Bắc Cực vào ngày25 tháng 2,1944.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-601 được đặt hàng vào ngày22 tháng 5,1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày10 tháng 2,1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày29 tháng 10,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày18 tháng 12,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Peter-Ottmar Grau.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 5,U-601 được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 7,1942 để hoạt động trên tuyến đầu. Nó lại được điều sangChi hạm đội U-boat 13 từ ngày1 tháng 6,1943 cho đến khi bị mất.[1]
U-601 đã di chuyển từ cảngKiel, Đức đến cảngNarvik,Na Uy vào đầutháng 7,1942,[3] rồi xuất phát từ đây vào ngày14 tháng 7 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Con tàu hướng sang phía Đông để hoạt động trongbiển Barents cho đến tận quần đảoNovaya Zemlya. Tại đây trong đêm26 tháng 7, nó đã bắn phá một trạm vô tuyến tại Malye Karmakuly, Novaya Zemlya bằng hải pháo.[5] Đến ngày1 tháng 8,U-601 phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buônLiên XôKrest’janin 2.513 GRT ở vị trí cáchđảo Mezhdysharskiy 10 nmi (19 km) về phía Tây.[6] Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngKirkenes ở phía cực Bắc Na Uy vào ngày3 tháng 8.[3]
U-601 khởi hành từ cảng Kirkenes vào ngày9 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ hai, và hoạt động xa hơn về phía Tây quần đảo Novaya Zemlya trongbiển Kara.[7] Tại đây vào ngày24 tháng 8, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn Liên XôKujbyshev 2.332 GRT,[8] đồng thời dùng hải pháo đánh chìm chiếctàu kéoMedvezhonok 50 GRT đượcKujbyshev kéo theo cùng ở vị trí về phía Tây Bắcđảo Dikson.[9] Nó kết thúc chuyến tuần tra tạiNeiden, Na Uy vào ngày20 tháng 9, và tiếp tục di chuyển đến cảngBergen, Na Uy vào cuốitháng 9.[3]
Vào cuốitháng 9,U-601 di chuyển từ Bergen đến Narvik, rồi xuất phát từ đây vào ngày5 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ ba. Chiếc tàu ngầm đã hoạt động trong biển Bắc Cực về phía Nam quần đảoSvalbard,[10] nơi nó phối hợp cùngbầy sói Boreas tấn công Đoàn tàu QP-15, và đã đánh chìm chiếc tàu buôn Liên XôKuznets Lesov 3.974 GRT vào ngày23 tháng 11.[11]U-601 kết thúc chuyến tuần tra khi lần lượt ghé đếnHarstad vào ngày7 tháng 12, Narvik vào ngày hôm sau, và cuối cùng về đến cảng Kiel vào ngày24 tháng 12, nơi con tàu được đại tu, sửa chữa và nâng cấp.[3]
Vào đầutháng 4,1943,U-601 lần lượt di chuyển từ Kiel đếnKristiansand và Bergen cùng thuộc Na Uy,[3] trước khi xuất phát từ đây vào ngày15 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ tư. Chiếc tàu ngầm đã hoạt động trong biển Na Uy trước khi quay trở về cảng Bergen vào ngày14 tháng 5.[12]
U-601 khởi hành từ Narvik vào ngày14 tháng 7 cho chuyến tuần tra tiếp theo, và lại hoạt động trong biển Barents cho đến tận quần đảo Novaya Zemlya trước khi quay trở về cảngHammerfest, Na Uy vào ngày25 tháng 7.[13]
U-601 xuất phát từ Hammerfest vào ngày30 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ sáu, và băng qua phía Tây để hoạt động trong biển Kara. Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra tại cảng Narvik vào ngày28 tháng 8.[14]
Đến giữatháng 9, chiếc U-boat đã lần lượt di chuyển từ Narvik đếnTromsø và Hammerfest cùng thuộc Na Uy,[3] rồi xuất phát từ Hammerfest vào ngày16 tháng 9 cho chuyến tuần tra tiếp theo.U-601 đã vòng qua phía Bắc quần đảo Novaya Zemlya để hoạt động trong biển Kara trước khi quay trở về Hammerfest vào ngày7 tháng 10.[15] Cho đến giữatháng 10, chiếc tàu ngầm đã di chuyển qua lại giữa các cảng Tromsø, Harstad,Skjomen,Trondheim và Bergen.[3]
Đến đầutháng 12,U-601 di chuyển từ Bergen đến Trondheim[3] trước khi khởi hành từ đây vào ngày18 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ tám. Chiếc tàu ngầm đã hoạt động trong biển Barents ngoài khơibán đảo Kola trước khi quay trở về Skjomen vào ngày7 tháng 1,1944.[16]
U-601 thực hiện chuyến tuần tra thứ chín khi rời Skjomen vào ngày10 tháng 1,1944. Tuy nhiên chiếc tàu ngầm chỉ hoạt động trong biển Bắc Cực về phía Bắc Na Uy trước khi quay trở về Hammerfest vào ngày2 tháng 2.[17]
U-601 khởi hành từ cảng Narvik vào ngày17 tháng 2 cho chuyến tuần tra thứ mười, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trongbiển Na Uy.[18] Chỉ tám ngày sau đó,25 tháng 2, nó bị mộtthủy phi cơPBY Catalina thuộc Liên đội 210Không quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu đánh chìm ở vị trí về phía Tây Narvik, tại tọa độ70°26′B12°40′Đ / 70,433°B 12,667°Đ /70.433; 12.667.[1] Toàn bộ 51 thành viên thủy thủ đoàn củaU-601 đều đã tử trận.[1]
U-601 từng tham gia nămbầy sói:
U-601 đã đánh chìm được bốn tàu buôn tổng tải trọng 8.869 GRT và hai tàu chiến tổng tải trọng 22.947 tấn, đồng thời gây hư hại cho ba tàu buôn khác:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[19] |
|---|---|---|---|---|
| 1 tháng 8, 1942 | Krest’janin | 2.513 | Bị đánh chìm | |
| 24 tháng 8, 1942 | Kujbyshev | 2.332 | Bị đánh chìm | |
| 24 tháng 8, 1942 | Medvezhonok | 50 | Bị đánh chìm | |
| 23 tháng 11, 1942 | Kuznets Lesov | 3.974 | Bị đánh chìm |