Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-596 |
| Đặt hàng | 16 tháng 1,1940 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 572 |
| Đặt lườn | 4 tháng 1,1941 |
| Hạ thủy | 17 tháng 9,1941 |
| Nhập biên chế | 13 tháng 11,1941 |
| Tình trạng |
|
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 42 884 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-596 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm mười hai tàu buôn với tổng tải trọng 41.411 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 246 tấn, đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn với tổng tải trọng 14.180 GRT.U-596 bị hư hại nặng trong một cuộc không kích củaKhông lực Lục quân Hoa Kỳ xuốngđảo Salamis,Hy Lạp vào ngày24 tháng 9,1944, và sau đó bị đánh đắm vào ngày30 tháng 9,1944.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-596 được đặt hàng vào ngày16 tháng 1,1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày4 tháng 1,1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày17 tháng 9,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày13 tháng 11,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quânGunter Jahn.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-596 được điều sangChi hạm đội U-boat 3 từ ngày1 tháng 7,1942 để hoạt động trên tuyến đầu. Nó lại được điều sangChi hạm đội U-boat 29 từ ngày19 tháng 11,1942 để hoạt động tại khu vựcĐịa Trung Hải cho đến khi bị mất.[1]
U-596 có các chuyến đi ngắn từ cảngKiel, Đức trongtháng 6 vàtháng 7,1942, khi một sự cố nổắc-quy trên tàu buộc nó phải đi đến cảngBergen,Na Uy để sửa chữa.[3] Nó khởi hành từ Bergen vào ngày8 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó đã tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh, và hoạt động tại khu vực Trung tâmBắc Đại Tây Dương.[5] Tại đây nó đã phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buônThụy ĐiểnSuecia 4.966 GRT, vốn bị rơi lại phía sau Đoàn tàu SC-95, vào ngày16 tháng 8.[6] Sau đó ở vị trí về phía Đông Nammũi Farewell,Greenland,U-596 tấn công Đoàn tàu SC-100 và đã đánh chìm chiếc tàu buôn AnhEmpire Hartebeeste 5.676 GRT vào ngày20 tháng 8.[7]
Đến ngày24 tháng 8, trong khi tìm cách tấn công Đoàn tàu ONS-122,U-596 bị cáctàu khu trục AnhHMS Viscount vàtàu corvette Na UyHNoMSPotentilla phát hiện và tấn công bằngmìn sâu, buộc chiếc tàu ngầm phải lặn sâu để ẩn nấp.[5] Sang ngày30 tháng 9, nó bị một máy bay không rõ lai lịch tấn công và bị hư hại nặng.[5] Nó xoay sở đi đến được cảngSt. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng vào ngày3 tháng 10.[5]
U-596 xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày4 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ hai. Nó hoạt động tại vùng biển ngoài khơiBồ Đào Nha trước khi chuyển sang hoạt động trong khu vựcĐịa Trung Hải. Chiếc U-boat đã thành công trong việc băng quaeo biển Gibraltar được phíaĐồng Minh canh phòng nghiêm ngặt vào ngày9 tháng 11, và kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảngLa Spezia,Ý vào ngày15 tháng 11.[8][9]
Chuyến tuần tra thứ ba củaU-596, cùng xuất phát và kết thúc tại cảng La Spezia, kéo dài từ ngày27 tháng 1 đến ngày16 tháng 2,1943.[10] Chiếc tàu ngầm đã hoạt động dọc bờ biểnBắc Phi ngoài khơiAlgérie, nơi vào ngày7 tháng 2 nó đã phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu đổ bộ HMSLCI (L) 162 (246 tấn) củaHải quân Hoàng gia Anh ở vị trí khoảng 25 nmi (46 km) về phía Đông BắcMostaganme, Algérie.[11]
Trong chuyến tuần tra tiếp theo diễn ra từ ngày28 tháng 2 đến ngày12 tháng 3,U-596 tiếp tục hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Algérie.[12] Tại đây vào ngày9 tháng 3, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu KMS-10, và gây hư hại cho các tàu buôn AnhFort Norman 7.133 GRT[13] vàEmpire Standard 7.047 GRT ở vị trí giữaAlgiers vàOran.[14]
Tiếp tục hoạt động từ căn cứ La Spezia cho chuyến tuần tra thứ năm kéo dài từ ngày23 tháng 3 đến ngày15 tháng 4,U-596 vẫn hoạt động tại Bắc Phi ngoài khơi Algérie.[15] Vào ngày30 tháng 3, nó đã phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu ET-13, và đánh chìmtàu chở dầuNa UyHallanger 9.551 GRT[16] cùng tàu buôn AnhFort a la Corne 7.133 GRT ở vị trí về phía Tây Algiers.[17] Đến cuốitháng 4, chiếc tàu ngầm chuyển căn cứ hoạt động từ La Spezia đến cảngPola (nay làPula thuộcCroatia).[3]
Chuyến tuần tra thứ sáu củaU-596, cùng xuất phát và kết thúc tại cảng La Spezia, chỉ kéo dài trong mười ngày. Nó đã hoạt động trongbiển Ionia từ ngày17 đến ngày26 tháng 6.[18]
Rời Pola vào ngày10 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ bảy,U-596 hoạt động tại khu vực Đông Địa Trung Hải ngoài khơiAi Cập,Palestine vàLiban.[19] Tại đây nó đã đánh chìm một loạt các thuyền buồm Ai Cập và Palestine:El Sayeda 68 GRT vào ngày20 tháng 8;[20]Lily 132 GRT,[21]Namaz 50 GRT[22] vàPanikos 21 GRT vào ngày22 tháng 8;[23]Nagwa 1.833 GRT vào ngày30 tháng 8;[24] vàHamidieh 80 GRT vào ngày7 tháng 9.[25] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến căn cứ mới tạiđảo Salamis,Hy Lạp vào ngày10 tháng 9.[3]
U-596 xuất phát từ Salamis vào ngày28 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ tám, và hoạt động tại vùng biển ngoài khơiLibya.[26] Tại đây vào ngày4 tháng 10, nó phóng một loạt ngư lôi tấn công Đoàn tàu XT-4, đánh chìm chiếc tàu chở dầu Na UyMarit 5.542 GRT ở vị trí khoảng 75 nmi (139 km) về phía TâyDarnah, Libya.[27] Ngay sau đó chiếc tàu ngầm bịtàu corvetteHMS Gloxinia củaHải quân Hoàng gia Anh phát hiện và thả bốn quả mìn sâu phản công, khiếnU-596 bị hư hại,[1] nhưng nó rút lui được và về đến căn cứ Pola vào ngày10 tháng 10.[3]
Chuyến tuần tra thứ chín trong biển Ionia củaU-596, cùng xuất phát và kết thúc tại cảng Pola, kéo dài từ ngày30 tháng 11 đến ngày28 tháng 12.[28] Vào ngày9 tháng 12, nó tấn công Đoàn tàu HA-11 , đánh chìm chiếc tàu chở quân AnhCap Padaran 8.009 GRT ở vị trí về phía Đông Bắcmũi Spartivento.[29]
Trong hai chuyến tuần tra tiếp theo, lần lượt từ ngày12 tháng 2 đến ngày11 tháng 3 và từ ngày9 đến ngày29 tháng 4,U-596 hoạt động trong các vùng biển Ionia vàbiển Adriatic, nhưng không đánh chìm thêm được mục tiêu nào.[30][31]
U-596 xuất phát từ cảng Pola vào ngày29 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ mười hai, cũng là chuyến cuối cùng, và đã hoạt động tại khu vựcvịnh Sirte bên bờ biểnLibya. Nó kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến đảo Salamis vào ngày1 tháng 9 mà không đánh chìm được mục tiêu nào.[32][33]
Máy bay ném bom thuộcKhông lực 15Không lực Lục quân Hoa Kỳ đã tiến hành ném bom xuống căn cứ hải quân tại đảo Salamis vào ngày24 tháng 9, khiến một người tử trận.U-596 bị hư hại nặng đến mức thành viên thủy thủ đoàn phải bỏ tàu để rút lui vềAthens. Chiếc tàu ngầm bị đánh đắm trong vịnh Skaramanga gần Salamis vào ngày30 tháng 9, tại tọa độ37°59′B23°34′Đ / 37,983°B 23,567°Đ /37.983; 23.567.[1][34]
U-596 từng tham gia haibầy sói:
U-596 đã đánh chìm được mười hai tàu buôn với tổng tải trọng 41.411 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 246 tấn, đồng thời gây hư hại cho hai tàu buôn với tổng tải trọng 14.180 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[35] |
|---|---|---|---|---|
| 16 tháng 8, 1942 | Suecia | 4.966 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 9, 1942 | Empire Hartebeeste | 5.676 | Bị đánh chìm | |
| 7 tháng 2, 1943 | HMSLCI (L) 162 | 246 | Bị đánh chìm | |
| 9 tháng 3, 1943 | Empire Standard | 7.047 | Bị hư hại | |
| 30 tháng 3, 1943 | Fort Norman | 7.133 | Bị hư hại | |
| 30 tháng 3, 1943 | Fort a la Corne | 7.133 | Bị đánh chìm | |
| 30 tháng 3, 1943 | Hallanger | 9.551 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 8, 1943 | El Sayeda | 68 | Bị đánh chìm | |
| 21 tháng 8, 1943 | Lily | 132 | Bị đánh chìm | |
| 21 tháng 8, 1943 | Namaz | 50 | Bị đánh chìm | |
| 21 tháng 8, 1943 | Panikos | 21 | Bị đánh chìm | |
| 30 tháng 8, 1943 | Nagwa | 183 | Bị đánh chìm | |
| 7 tháng 9, 1943 | Hamidieh | 80 | Bị đánh chìm | |
| 4 tháng 10, 1943 | Marit | 5.542 | Bị đánh chìm | |
| 9 tháng 12, 1943 | Cap Padaran | 8.009 | Bị đánh chìm |