Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-591 |
| Đặt hàng | 16 tháng 1,1940 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 567 |
| Đặt lườn | 30 tháng 10,1940 |
| Hạ thủy | 20 tháng 8,1941 |
| Nhập biên chế | 9 tháng 10,1941 |
| Tình trạng | Bị máy bayLockheed Ventura củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm trong NamĐại Tây Dương,30 tháng 7,1943[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 37 230 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-591 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra, đánh chìm được bốn tàu buôn với tổng tải trọng 19.932 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn kháv tải trọng 5.701 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-591 bị mộtmáy bay ném bomLockheed Ventura củaHải quân Hoa Kỳ thảmìn sâu đánh chìm trong NamĐại Tây Dương về phía Đông NamRecife,Brazil vào ngày30 tháng 7,1943.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-591 được đặt hàng vào ngày16 tháng 1,1940,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày30 tháng 10,1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày20 tháng 8,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày9 tháng 10,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Hans-Jürgen Zetzsche.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 6,U-591 tiếp tục phục vụ cùng đơn vị này để hoạt động trên tuyến đầu. Nó được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 7,1942, rồi sangChi hạm đội U-boat 9 từ ngày1 tháng 6,1943 cho đến khi bị mất.[1]
U-591 khởi hành từ cảngKiel, Đức vào ngày15 tháng 1,1942 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó đã tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại vùng biểnBắc Đại Tây Dương về phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây). Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra khi băng qua ngược trở lại khe GI-UK, lần này giữa cácquần đảo Sheetland và Faroe, và đi đến cảngBergen,Na Uy vào ngày20 tháng 2.[5]
U-591 xuất phát từ cảng Bergen vào ngày1 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai, và đã hoạt động tại vùngbiển Na Uy trước khi đi đến cảngTrondheim, Na Uy vào ngày11 tháng 4.[6]
Chiếc U-boat tiếp tục thực hiện chuyến tuần tra tiếp theo khi rời Trondheim vào ngày10 tháng 5, và đã hoạt động cho đến tậnbiển Barents ngoài khơibán đảo Kola. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại cảngNarvik, Na Uy vào ngày2 tháng 6,[7] rồi đi đến cảng Bergen vào đầutháng 6.[3]
Chuyến tuần tra thứ tư củaU-591, cùng xuất phát và kết thúc tại cảng Bergen và diễn ra từ ngày27 tháng 7 đến ngày14 tháng 8. Nó hoạt động trong biển Na Uy cho đến phía ĐôngGreenland và phía Nam quần đảoSvalbard, nhưng đã không đánh chìm được mục tiêu nào.[8] Sau đó vào cuốitháng 8 và đầutháng 9, chiếc tàu ngầm có các chuyến đi ngắn đếnSkjomenfjord,Bogen,Trondheim và Bergen.[3]
U-591 khởi hành từ cảng Bergen vào ngày1 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ năm. Nó băng qua khe GI-UK giữa cácquần đảo Shetland vàFaroe để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại khu vực Trung tâmBắc Đại Tây Dương.[9] Tại đây vào ngày21 tháng 12, nó phóng ngư lôi tấn công và đánh chìm chiếc tàu buôn AnhMontreal City 3.066 GRT ở vị trí khoảng 600 nmi (1.100 km) về phía ĐôngSt. John's.[10] Đến ngày28 tháng 12, chiếc tàu ngầm tấn công Đoàn tàu ONS-154, đánh trúng và gây hư hại cho chiếc tàu buôn Na UyNorse King 5.701 GRT, mà cuối cùng bị tàu ngầmU-435 kết liễu một ngày sau đó.[11] Sang ngày hôm sau29 tháng 12,U-591 phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn AnhZarian 4.871 GRT, vốn đã hư hại sau khi trúng ngư lôi từ tàu ngầmU-406 một ngày trước đó.[12]U-591 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngBrest bên bờ Đại Tây Dương củaPháp vào ngày12 tháng 1,1943.[3]
U-591 khởi hành từ cảng Brest vào ngày17 tháng 2,1943 cho chuyến tuần tra thứ sáu, và đã hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[13] Vào ngày7 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn AnhEmpire Impala 6.116 GRT, vốn đã tách khỏi Đoàn tàu SC-121 để cứu vớt những người sống sót từ chiếcEgyptian bị tàu ngầmU-230 đánh chìm.[14] Sang ngày hôm sau8 tháng 3, chiếc tàu ngầm tiếp tục đánh chìm chiếc tàu buônNam TưVojvoda Putnik 5.879 GRT, cùng thuộc Đoàn tàu SC-121 nhưng bị tụt lại phía sau do thời tiết xấu.[15] Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về cảngSt. Nazaire, cùng bên bờ Đại Tây Dương của Pháp, vào ngày7 tháng 4.[3]
Chuyến tuần tra ngắn tiếp theo củaU-591 chỉ kéo dài trong năm ngày, từ ngày12 đến ngày17 tháng 5. Sau khi xuất phát từ St. Nazaire và vẫn còn đang di chuyển trongvịnh Biscay, chiếc tàu ngầm bị mộtmáy bay ném bomArmstrong Whitworth Whitley thuộc Liên đội 10Không quân Hoàng gia Anh ném bom và bắn phá vào ngày15 tháng 5. Con tàu không bị hư hại, nhưng Đại úy Hans-Jürgen Zetzsche hạm trưởng cùng một thủy thủ bị thương, nên phải kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về St. Nazaire.[16]
Xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày26 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng,U-591 hướng xuống phía Nam để hoạt động dọc theo bờ biển phía Đông của lục địaNam Mỹ.[17] Nó bị mộtmáy bay ném bomLockheed Ventura thuộc Liên Đội VPB-127Hải quân Hoa Kỳ thảmìn sâu đánh chìm trong NamĐại Tây Dương về phía Đông NamRecife,Brazil vào ngày30 tháng 7,1943, tại tọa độ08°36′N34°34′T / 8,6°N 34,567°T /-8.600; -34.567.[1] 19 người trong số thành viên thủy thủ đoàn của chiếc U-boat đã tử trận, và có 28 người sống sống sót được cứu vớt và bị bắt làmtù binh chiến tranh.[1]
U-591 từng tham gia chínbầy sói:
U-591 đã đánh chìm được bốn tàu buôn với tổng tải trọng 19.932 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn kháv tải trọng 5.701 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[18] |
|---|---|---|---|---|
| 21 tháng 12, 1942 | Montreal City | 3.066 | Bị đánh chìm | |
| 28 tháng 12, 1942 | Norse King | 5.701 | Bị hư hại | |
| 29 tháng 12, 1942 | Zarian | 4.871 | Bị đánh chìm | |
| 7 tháng 3, 1943 | Empire Impala | 6.116 | Bị đánh chìm | |
| 8 tháng 3, 1943 | Vojvoda Putnik | 5.879 | Bị đánh chìm |