Tàu ngầmU-572 đang bị tấn công tại Đại Tây Dương, ngày 3 tháng 8 năm 1943 | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-572 |
| Đặt hàng | 24 tháng 10,1939 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 548 |
| Đặt lườn | 15 tháng 6,1940 |
| Hạ thủy | 5 tháng 4,1941 |
| Nhập biên chế | 29 tháng 5,1941 |
| Tình trạng | Bị mộtthủy phi cơMartin PBM Mariner củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm ngoài khơiTrinidad,3 tháng 8,1943[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 42 493 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-572 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được chín chuyến tuần tra, đánh chìm được sáu tàu buôn với tổng tải trọng 19.323 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 6.207 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-572 bị mộtthủy phi cơMartin PBM Mariner củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm ngoài khơiTrinidad vào ngày3 tháng 8,1943.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-572 được đặt hàng vào ngày24 tháng 10,1939,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBlohm & Voss ởHamburg vào ngày15 tháng 6,1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày5 tháng 4,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày29 tháng 5,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Karl Schrott.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 3,U-572 tiếp tục ở lại cùng đơn vị này để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[1]
U-572 xuất phát từ cảngTrondheim,Na Uy vào ngày2 tháng 9,1941 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó đã băng quakhe GI-UK giữa quần đảoFaroe vàIceland để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại các vùng biển về phía Tây Nam Iceland và Trung tâmBắc Đại Tây Dương. Con tàu kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảngLorient bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày2 tháng 10.[5]
U-572 khởi hành từ cảng Lorient vào ngày30 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ hai, và đã hoạt động trong vùng biển Đại Tây Dương về phía Tâyvịnh Biscay. Nó kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngBrest cùng bên bờ Đại Tây Dương của Pháp vào ngày29 tháng 11.[6]
Chuyến tuần tra thứ ba củaU-572, cùng xuất phát và kết thúc tại Brest, kéo dài từ ngày7 tháng 1 đến ngày10 tháng 2,1942. Chiếc tàu ngầm đã hướng xuống phía Nam để hoạt động trong vùng biển Đại Tây Dương ở lối ra vào phía Tây củaeo biển Gibraltar.[7]
U-572 xuất phát từ Brest vào ngày14 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ tư, và đã băng qua suốt Đại Tây Dương để hoạt động ngoài khơi vùng bờ Đông củaHoa Kỳ trong khuôn khổChiến dịch Paukenschlag (tiếng Anh: Chiến dịch Drumbeat).[8] Trên đường đi giữa Đại Tây Dương vào ngày4 tháng 4, nó tấn công bằng hải pháo chiếctàu chở dầu AnhEnsis 6.207 GRT nhưng chỉ gây hư hại nhẹ.[9] Đến ngày16 tháng 4,U-572 phóng ngư lôi tấn công và đánh chìm chiếc tàu buônPanamaDesert Light 2.368 GRT ở vị trí về phía ĐôngKitty Hawk,Bắc Carolina.[10] Sau đó vào ngày16 tháng 4, nó tiếp tục đánh chìm chiếc tàu buôn AnhEmpire Dryden 7.164 GRT ở vị trí khoảng 240 nmi (440 km) về phía Tây BắcBermuda.[11] Nó kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngLa Pallice tạiLa Rochelle cùng bên bờ Đại Tây Dương của Pháp, đến nơi vào ngày14 tháng 5.[3] La Pallice trở thành căn cứ hoạt động chính của chiếc tàu ngầm cho đến khi nó bị mất.[3]
Trong chuyến tuần tra thứ năm diễn ra từ ngày30 tháng 6 đến ngày3 tháng 9,U-572 đã hướng xuống phía Nam để hoạt động dọc theo bờ biểnTây Phi cho đến tận ngoài khơiConakry,Guinea thuộc Pháp.[12] Vào ngày7 tháng 8, chiếc tàu ngầm phải tiêu phí đến sáu quả ngư lôi mới đánh chìm được chiếc tàu buôn Hà LanDelfshaven 5.281 GRT ở vị trí về phía Tây NamDakar,Sénégal.[13]
U-572 khởi hành từ cảng La Pallice vào ngày12 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ sáu, và hướng xuống phía Nam do nhận lệnh điều động sang phục vụ tại khu vựcĐịa Trung Hải. Tuy nhiên chiếc tàu ngầm đã không thể vượt quaeo biển Gibraltar đượclực lượng Đồng Minh canh phòng nghiêm ngặt, và đã quay trở về La Pallice vào ngày22 tháng 11.[14] Sau chuyến đi, Đại úy hạm trưởng Heinz Hirsacker bị thuộc cấp tố cáo là hèn nhát và bị đưa ra xét xử tạitòa án binh; ông tự vẫn vào ngày 24 tháng 4, 1943, trước khi bị đưa ra xử bắn.[15]
Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới,Trung úy Hải quân Heinz Kummetat,U-572 thực hiện chuyến tuần tra thứ bảy từ ngày23 tháng 12,1942 đến ngày11 tháng 2,1943 để hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[16]
Chuyến tuần tra tiếp theo củaU-572 kéo dài từ ngày10 tháng 3 đến ngày18 tháng 4, khi chiếc tàu ngầm hoạt động tại vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[17] Trong cả hai chuyến đi nó đều không đánh chìm được mục tiêu nào.[3]
U-572 xuất phát từ cảng La Pallice vào ngày2 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, và đã hướng xuống phía Tây Nam để hoạt động dọc bờ biển Tây Bắc của lục địaNam Mỹ.[18] Trên đường đi giữa Đại Tây Dương vào ngày22 tháng 6, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu UGS-10, và đã đánh chìm chiếctàu tiếp dầuLot 4.220 GRT củaPháp tự do tại tọa độ23°56′B43°10′T / 23,933°B 43,167°T /23.933; -43.167.[19] Sau đó ở vị trí về phía ĐôngTrinidad vào ngày14 tháng 7, chiếc U-boat dùng hải pháo đánh chìm chiếc thuyền buồm AnhHarvard 114 GRT,[20] và tiếp tục đánh chìm chiếc thuyền buồm AnhGilbert B. Walters 176 GRT vào ngày hôm sau ở vị trí về phía Đông Nam Trinidad.[21]
Đến ngày31 tháng 7, ở vị trí về phía Đông Trinidad, chiếc U-boat bị một máy bay Đồng Minh tấn công, nhưng đã chống trả và thoát được. Tuy nhiên sang ngày3 tháng 8, nó lại bị mộtthủy phi cơMartin PBM Mariner thuộc Liên đội Tuần tra VP-205Hải quân Hoa Kỳ tấn công ngoài khơi Trinidad. Hỏa lực phòng không từ chiếc tàu ngầm đã bắn rơi máy bay đối phương, khiến toàn bộ đội bay đều thiệt mạng, nhưngmìn sâu thả từ chiếc PBM Mariner cũng đã đánh chìmU-572 tại tọa độ11°35′B54°05′T / 11,583°B 54,083°T /11.583; -54.083; toàn bộ 47 thành viên thủy thủ đoàn của nó đều tử trận.[1]
U-572 từng tham gia mười mộtbầy sói:
U-572 đã đánh chìm được được sáu tàu buôn với tổng tải trọng 19.323 GRT, đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác tải trọng 6.207 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[22] |
|---|---|---|---|---|
| 4 tháng 4, 1942 | Ensis | 6.207 | Bị hư hại | |
| 16 tháng 4, 1942 | Desert Light | 2.368 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 4, 1942 | Empire Dryden | 7.164 | Bị đánh chìm | |
| 7 tháng 8, 1942 | Delfshaven | 5.281 | Bị đánh chìm | |
| 22 tháng 6, 1943 | Lot | 4.220 | Bị đánh chìm | |
| 14 tháng 7, 1943 | Harvard | 114 | Bị đánh chìm | |
| 15 tháng 7, 1943 | Gilbert B. Walters | 176 | Bị đánh chìm |