Tàu ngầmU-52, một chiếc lớp Type VIIB tiêu biểu | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-48 |
| Đặt hàng | 21 tháng 11,1936[1] |
| Xưởng đóng tàu | Germaniawerft,Kiel |
| Kinh phí | 4.439.000Reichsmark |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 583 |
| Đặt lườn | 10 tháng 3,1937[1] |
| Hạ thủy | 8 tháng 3,1939[1] |
| Nhập biên chế | 22 tháng 4,1939[1] |
| Xuất biên chế | tháng 10,1943 |
| Số phận | Bị đánh đắm trongvịnh Lübeck,3 tháng 5,1945[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIB |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,50 m (31 ft 2 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 27 354 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | |
U-48 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIB đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trướcChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1939, nó đã thực hiện được tổng cộng mười hai chuyến tuần tra, đánh chìm được năm mươi tàu buôn với tổng tải trọng 299.477 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 1.060 tấn, đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác, trở thành tàu U-boat có thành tích nổi bật nhất trong Thế Chiến II.[4][5]U-48 được rút về vai trò huấn luyện tại khu vựcbiển Baltic từtháng 6,1941, rồi xuất biên chế vàotháng 10,1943. Vào lúc kết thúc cuộc xung đột,U-48 bị đánh đắm trongvịnh Lübeck vào ngày3 tháng 5,1945, nhằm tránh bị lọt vào tay lực lượngĐồng Minh.
Phân lớp VIIB củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIA được mở rộng. Chúng cótrọng lượng choán nước 753 t (741tấn Anh) khi nổi và 857 t (843 tấn Anh) khi lặn). Con tàu có chiều dài chung 66,50 m (218 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 48,80 m (160 ft 1 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,50 m (31 ft 2 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[6]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,9 kn (33,2 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.700 nmi (16.100 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnBrown, Boveri & Cie GG UB 720/8 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 8 kn (15 km/h), và tầm hoạt động 90 nmi (170 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[6]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIB bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[6]
U-48 được đặt hàng vào ngày21 tháng 11,1936,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngFriedrich Krupp Germaniawerft tạiKiel vào ngày10 tháng 3,1937.[1] Nó được hạ thủy vào ngày8 tháng 3,1939,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày22 tháng 4,1939[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quânHerbert Schultze.[1]
Khi mâu thuẫn vớiBa Lan có nguy cơ bùng nổ thành xung đột,U-48 lên đường từ cảngKiel vào ngày19 tháng 8,1939,[3] trước khi Thế Chiến II chính thức diễn ra vào ngày1 tháng 9, nhằm cho phép nó tấn công tàu bè đối phương ngay khi xung đột bắt đầu. Chiếc tàu ngầm tiến vàoBắc Hải, rồi băng quakhe GIUK giữaScotland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh và đi đếnvịnh Biscay.[7]
U-48 bắt đầu hoạt động tại Khu vực Tiếp cận phía Tây hai ngày sau khiAnh vàPháp tuyên chiến với Đức, nơi nó tấn công mục tiêu đầu tiên là chiếc SSRoyal Sceptre 4.853 GRT bằng hải pháo vào ngày5 tháng 9. Thủy thủ đoànRoyal Sceptre đã bỏ tàu ngoại trừ sĩ quan thông tin tiếp tục ở lại để gửi tín hiệu vô tuyến cầu cứu. Viên sĩ quan này thoạt tiên bị bắt làmtù binh chiến tranh, nhưng được Đại úy Hải quân Herbert Schultze, hạm trưởngU-48 phóng thích ngay sau đó.[8] Ngay sau đóU-48 ngăn chặn chiếc SSBrowning; thủy thủ đã bỏ tàu nhưng Schultze yêu cầu họ quay trở lại tàu và cứu vớt những người sống sót củaRoyal Sceptre. Vì chiếcBrowning đang trong hành trình hướng sangBrazil, nên thoạt tiên người ta cho rằng thủy thủ cùng 60 hành khách củaRoyal Sceptre đã không sống sót.[9]
Sau đóU-48 còn ngăn chặn, khám xét rồi phóng thích nhiều tàu buôn trung lập khác trước khi đánh chìm chiếcWinkleigh vào ngày8 tháng 9, toàn bộ thủy thủ đoàn được di tản sang xuồng cứu sinh.[10] Đến ngày11 tháng 9, chiếc tàu ngầm đánh chìmFirby, và sau đó trợ giúp y tế và thực phẩm cho những người sống sót trên bè cứu sinh, cũng như dùng vô tuyến báo tọa độ những người sống sót cho phía Anh.[11] Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày17 tháng 9, sau khi đánh chìm ba tàu buôn với tổng tải trọng 14.777 GRT.[7]
U-48 hoạt động thành công hơn trong chuyến tuần tra thứ hai, sau khi nó khởi hành từ Kiel vào ngày4 tháng 10 tiếp tục theo lộ trình cũ để hoạt động trong vịnh Biscay giữa Anh, Pháp vàTây Ban Nha. Nó đánh chìm tổng cộng năm tàu đối phương với tổng tải trọng 37.153 GRT, bao gồmtàu chở dầu Pháp SSEmile Miguet vào ngày12 tháng 10,Heronspool vàLouisiane vào ngày13 tháng 10,Sneaton vào ngày14 tháng 10, vàClan Chisholm vào ngày17 tháng 10. Sau đó vào ngày19 tháng 10, chiếc tàu ngầm tấn công chiếcRockpool bằng hải pháo, nhưng đối phương nả pháo chống cự, buộcU-48 phải lặn xuống né tránh. Khi nó nổi trở lên mặt nước để tiếp tục tấn công, mộttàu khu trục đối phương xuất hiện, khiếnU-48 phải từ bỏ ý định tấn công và rút lui. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày25 tháng 10.[12]
U-48 khởi hành từ Kiel vào ngày20 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực Bắc Hải và vịnh Biscay. Nó tấn công tàu buônThụy Điển trung lập MTGustaf E. Reuter 6.336 GRT tại vị trí 14 nmi (26 km) về phía Tây Bắcđảo Fair, Scotland vào ngày27 tháng 11. Mục tiêu bị hư hại nặng đến mức chiếc HMSKingston Beryl phải đánh đắm nó vào ngày hôm sau; một thủy thủ đã thiệt mạng và có 33 người khác sống sót. Đến ngày8 tháng 12,U-48 lại đánh chìm tàu buôn AnhBrandon ngoài khơi bờ biển phía Nam Ireland.[13] Sang ngày hôm sau, nó tấn công tàu chở dầu AnhSan Alberto; mục tiêu bị hư hại nặng đến mức nó phải bị tàu khu trụcHMS Mackay đánh chìm.[14] Cuối cùng vào ngày15 tháng 12,U-48 ngăn chặn chiếc tàu buôn Hy Lạp trung lậpGermaine, vốn được Ireland thuê để vận chuyểnngô đếnCork; Đại úy Schultze hạm trưởngU-48 cho rằng con tàu đang vận chuyển hàng hóa đến Anh, nên đã đánh chìm mục tiêu. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày20 tháng 12.[13]
Sau kỳ nghỉ lễGiáng Sinh,U-48 lại khởi hành từ Kiel vào ngày24 tháng 1,1940 cho chuyến tuần tra thứ tư. Tại vùng biển về phía Nam Ireland, trong giai đoạn từ ngày10 đến ngày17 tháng 2, nó đánh chìm bốn tàu buôn với tổng tải trọng 31.526 GRT. Chiếc tàu ngầm cũng đã rải một bãithủy lôi ngoài khơiSt Abbs, Scotland nhưng không có hiệu quả. Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày26 tháng 2.[15]
Khởi hành từ Kiel vào ngày3 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ năm,U-48 tiến vào Bắc Hải và hoạt động tại khu vực dọc suốt bờ biểnNa Uy, con tàu đã hỗ trợ choChiến dịch Weserübung nhằm xâm chiếm đất nước này. Vào ngày13 tháng 4, nó tìm cách tấn công các tàu khu trục trong thành phần hộ tống chothiết giáp hạmHMS Warspite, nhưng bị đối phương phản công bằngmìn sâu, chiếc tàu ngầm đã thoát được và chỉ bị hư hại nhẹ.[16] Nó kết thúc chuyến tuần tra và về đến Kiel vào ngày20 tháng 4.[17]
Chuyến tuần tra thứ sáu là một chuyến khá thành công củaU-48, khi nó đánh chìm bảy tàu buôn với tổng tải trọng 31.533 GRT và gây hư hại cho một chiếc khác tải trọng 5.888 GRT từ ngày26 tháng 5 đến ngày29 tháng 6.[18] Do Đại úy Schultze phải nhập viện do bệnh tật, quyền chỉ huyU-48 được chuyển giao choThiếu tá Hải quânHans-Rudolf Rösing từ ngày21 tháng 5.[19] Trong các ngày5 và7 tháng 6, ở vùng biển về phía Tây và Tây Bắc Scotland, nó đánh chìm các tàu buôn AnhStancor vàFrances Massey cùng gây hư hại nặng cho chiếcEros vốn đang vận chuyển 200 tấn vũ khí cá nhân từMontreal,Canada.Tàu khu trục hộ tốngHMS Berkeley, được cáctàu kéoHMS Bandit và tàu khu trụcHMS Volunteer trợ giúp, đã kéoEros đi đến bờ biển Ireland thuộchạt Donegal, nơi con tàu được sửa chữa dưới sự canh phòng của binh lính Ireland.[20]
Hải quân Đức được thông tin một đoàn tàu vận tải chuyển quân, bao gồm các chiếcRMS Queen Mary vàRMS Mauretania, đang trên đường vận chuyển 25.000 binh línhAustralia đến Anh, nênU-48 được lệnh đi đến ngoài khơimũi Finisterre,Tây Ban Nha và tham giabầy sóiRösing's nhằm đánh chặn đoàn tàu này. Tuy nhiên hoạt động của tàu ngầm U-boat trong khu vực khiến Hải quân Anh nhận biết sự hiện diện của chúng, và đoàn tàu vận tải đã đổi hướng để né tránh bầy sói.[21] Đến ngày19 tháng 6,U-48 tấn công Đoàn tàu HG 34 và đánh chìm các chiếcMV Tudor,SS Baron Loudoun vàSS British Monarch. Chiếc tàu ngầm còn đánh chìm thêm chiếcMoordrecht thuộc Đoàn tàu HX 49 vào ngày hôm sau trước khi kết thúc chuyến tuần tra.[22][18]
Khởi hành từ Kiel vào ngày7 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ bảy,U-48 hoạt động tại Khu vực Tiếp cận phía Tây, nơi nó đánh chìm năm tàu buôn với tổng tải trọng 29.168 GRT. Chiếc tàu ngầm lần lượt đánh chìmHedrun vào ngày16 tháng 8,Ville de Gand vào ngày19 tháng 8 vàLa Brea vào ngày24 tháng 8. Sau khiU-48 phóng ngư lôi đánh chìm hai tàu buônAthelcrest vàEmpire Merlin thuộc Đoàn tàu HX 65A vào ngày25 tháng 8,tàu corvetteHMS Godetia đã phản công bằng mìn sâu, nhưng chiếc tàu ngầm đã thoát được mà không bị hư hại.U-48 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngLorient bên bờ biển Đại Tây Dương củaPháp đã bịĐức Quốc Xã chiếm đóng, đến nơi vào ngày28 tháng 8, giúp nó mở rộng thêm tầm hoạt động.[23]
Trong chuyến tuần tra thứ tám, vào ngày18 tháng 9,U-48 gây ra sự kiện làm chấn động dư luận khi nó đánh chìm chiếctàu biển chở hành kháchSS City of Benares 11.081 GRT, vốn đang di chuyển trong đội hình Đoàn tàu OB 213. Trong số hành khách bên trênCity of Benares có 119 trẻ em, trong đó 90 em được di tản sangCanada theo sáng kiến củaỦy ban Tiếp đón Trẻ em Hải ngoại.[24] Sau khi trúng ngư lôi,City of Benares lập tức bị nghiêng, khiến nó không thể hạ thủy các xuồng cứu sinh ngoại trừ hai chiếc. Những người sống sót không được cứu vớt cho đến 24 giờ sau đó, thậm chí một xuồng cứu sinh chỉ được tìm thấy sau đó tám ngày; chỉ có 148 người, bao gồm 19 trẻ em, 21 phụ nữ và 108 đàn ông sống sót trong tổng số 408 người có mặt trên tàu. Có tổng cộng 260 người, bao gồm 100 trẻ em, 35 phụ nữ và 125 đàn ông, thiệt mạng trong vụ đắm tàu, khiến chương trình di tản trẻ em ra nước ngoài phải chấm dứt.[24]
Thảm họaCity of Benares bị đánh chìm là một vấn đề gây ra nhiều tranh luận. Một số cho rằng nếu Hải quân Anh công bố con tàu đang chở người tị nạn, phía Đức sẽ tránh không tấn công vì sẽ đối diện với sự phản đối từ các nước trung lập, vốn đã xảy ra và không thuận lợi cho hoạt độngtuyên truyền. Tuy nhiên, chiếc tàu chở hành khách không chỉ di chuyển tắt đèn vào ban đêm trong đội hình một đoàn tàu vận tảiĐồng Minh, mà nó còn làsoái hạm củaChuẩn đô đốcEdmund Mackinnon, chỉ huy đoàn tàu vận tải.[Ghi chú 1] Các sử gia khác tranh luận rằng phía Đức có quyền tấn công mọi tàu chở khách lớn, bất kể nó đang chở hàng hóa hay hành khách gì. Dù saoCity of Benares cũng được sơn bên ngoài như một tàu chở quân, nên chiếc U-boat tin rằng mục tiêu chỉ vận chuyển binh lính và thủy thủ, nên đã đánh chìm nó.[24]
Dù sao đây cũng là một chuyến tuần tra rất thành công củaU-48, khi nó đánh chìm bảy tàu buôn với tổng tải trọng 34.418 GRT và gây hư hại cho một chiếc tải trọng 5.136 GRT, trong chuyến tuần tra từ ngày8 đến ngày25 tháng 9.
Kéo dài từ ngày5 đến ngày27 tháng 10,[3] đây là chuyến tuần tra thành công nhất củaU-48, khi bảy tàu buôn với tổng tải trọng 43.106 GRT bị đánh chìm. Sau khi xuất phát từ Lorient, tại vùng biển phía Tây Bắc Ireland, nó đã tấn công Đoàn tàu HX 77 và đánh chìm các chiếcBrandanger,Port Gisborne vàDavanger trong các ngày11 và12 tháng 10. Nó tiếp tục tấn công Đoàn tàu SC và đánh chìm các chiếcLanguedoc vàScoresby trong ngày17 tháng 10, và sau đó làSandend vàShirak vào các ngày18 và20 tháng 10 tương ứng. Chiếc tàu ngầm sau đó băng qua khe GIUK để kết thúc chuyến tuần tra tại Kiel.[25]
Sau thời gian điều trị bệnh, Đại úy Schultze quay trở lại chỉ huyU-48 từ ngày17 tháng 12,1940, trong khi chiếc tàu ngầm được tái trang bị tại Kiel. Nó xuất phát từ Kiel vào ngày20 tháng 1,1941 cho chuyến tuần tra thứ mười để hoạt động tại vùng biển phía Tây Bắc Scotland.U-48 đã đánh chìm hai tàu buôn với tổng tải trọng 8.640 GRT trước khi đi đến căn cứSt. Nazaire bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp vào ngày27 tháng 2.[26]
Trong các chuyến tuần tra sau cùng củaU-48: chuyến thứ mười một từ ngày17 tháng 3 đến ngày8 tháng 4 và chuyến thứ mười hai từ ngày22 tháng 5 đến ngày17 tháng 6, chiếc tàu ngầm còn đánh chìm thêm tám tàu ngầm với tổng tải trọng 51.995 GRT và gây hư hại cho một chiếc khác 9.456 GRT.[27][28] Dù sao,U-48 rõ ràng đã trở nên lạc hậu với sự tiến bộ kỹ thuật từ cả hai phía, cho dù đã được nâng cấp vào mùa Đông trước đó. Tầm xa hoạt động và số ngư lôi mang theo bị hạn chế so với chiến trường ngày càng mở rộng, và sẽ là nguy cơ cho thủy thủ đoàn lẫn các tàu U-boat khác nếu nó ở lại lâu hơn trên chiến trường chính tại Bắc Đại Tây Dương.[1]
Quay trở về Kiel vào ngày22 tháng 6,1941 sau chuyến tuần tra cuối cùng,U-48 được điều sang vai trò huấn luyện tại khu vựcbiển Baltic. Không giống nhiều tàu U-boat khác trong khu vực, nó không được huy động vào hoạt động tuần tra chiến tranh trong khu vựcbiển Baltic, trong bối cảnhcuộc xung đột vớiLiên Xô đã bắt đầu. Đến năm1943, nó được xem là không còn phù hợp để phục vụ, ngay cả trong những nhiệm vụ gới hạn, nên được cho xuất biên chế vào ngày25 tháng 9, và bị bỏ không tạiNeustadt. Vào giai đoạn kết thúc Thế Chiến II, theo dự định củakế hoạch Regenbogen,U-46 bị đánh đắm tạivịnh Lübeck, tại tọa độ54°07′B10°50′Đ / 54,117°B 10,833°Đ /54.117; 10.833, vào ngày3 tháng 5,1945, để tránh lọt vào taylực lượng Đồng Minh.[1]
U-48 từng tham gia haibầy sói
U-48 đã đánh chìm được năm mươi tàu buôn với tổng tải trọng 299.477 GRT cùng một tàu chiến tải trọng 1.060 tấn, đồng thời gây hư hại cho bốn tàu buôn khác:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 2] | Số phận[4] |
|---|---|---|---|---|
| 5 tháng 9, 1939 | Royal Sceptre | 4.853 | Bị đánh chìm | |
| 8 tháng 9, 1939 | Winkleigh | 5.055 | Bị đánh chìm | |
| 11 tháng 9, 1939 | Firby | 4.869 | Bị đánh chìm | |
| 12 tháng 10, 1939 | Emile Miguet | 14.115 | Bị đánh chìm | |
| 12 tháng 10, 1939 | Heronspool | 5.202 | Bị đánh chìm | |
| 13 tháng 10, 1939 | Louisiane | 6.903 | Bị đánh chìm | |
| 14 tháng 10, 1939 | Sneaton | 3.677 | Bị đánh chìm | |
| 17 tháng 10, 1939 | Clan Chisholm | 7.256 | Bị đánh chìm | |
| 26 tháng 11, 1939 | Gustaf E. Reuter | 6.336 | Bị đánh chìm | |
| 8 tháng 12, 1939 | Brandon | 6.668 | Bị đánh chìm | |
| 9 tháng 12, 1939 | San Alberto | 7.397 | Bị hư hại | |
| 15 tháng 12, 1939 | Germaine | 5.217 | Bị đánh chìm | |
| 10 tháng 2, 1940 | Burgerdijk | 6.853 | Bị đánh chìm | |
| 14 tháng 2, 1940 | Sultan Star | 12.306 | Bị đánh chìm | |
| 15 tháng 2, 1940 | Den Haag | 8.971 | Bị đánh chìm | |
| 17 tháng 2, 1940 | Wilja | 3.396 | Bị đánh chìm | |
| 6 tháng 6, 1940 | Stancor | 798 | Bị đánh chìm | |
| 6 tháng 6, 1940 | Frances Massey | 4.212 | Bị đánh chìm | |
| 7 tháng 6, 1940 | Eros | 5.888 | Bị hư hại | |
| 11 tháng 6, 1940 | Violando N Goulandris | 3.598 | Bị đánh chìm | |
| 19 tháng 6, 1940 | Tudor | 6.607 | Bị đánh chìm | |
| 19 tháng 6, 1940 | Baron Loudoun | 3.164 | Bị đánh chìm | |
| 19 tháng 6, 1940 | British Monarch | 5.661 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 6, 1940 | Moerdrecht | 7.493 | Bị đánh chìm | |
| 16 tháng 8, 1940 | Hedrun | 2.325 | Bị đánh chìm | |
| 19 tháng 8, 1940 | Ville de Gand | 7.590 | Bị đánh chìm | |
| 24 tháng 8, 1940 | La Brea | 6.665 | Bị đánh chìm | |
| 25 tháng 8, 1940 | Empire Merlin | 5.763 | Bị đánh chìm | |
| 25 tháng 8, 1940 | Athelcrest | 6.825 | Bị đánh chìm | |
| 15 tháng 9, 1940 | Alexandros | 4.343 | Bị đánh chìm | |
| 15 tháng 9, 1940 | HMS Dundee | 1.060 | Bị đánh chìm | |
| 15 tháng 9, 1940 | Empire Volunteer | 5.319 | Bị đánh chìm | |
| 18 tháng 9, 1940 | City of Benares | 11.081 | Bị đánh chìm | |
| 18 tháng 9, 1940 | Marina | 5.088 | Bị đánh chìm | |
| 18 tháng 9, 1940 | Magdalena | 3.118 | Bị đánh chìm | |
| 21 tháng 9, 1940 | Blairangus | 4.409 | Bị đánh chìm | |
| 21 tháng 9, 1940 | Broompark | 5.136 | Bị hư hại | |
| 11 tháng 10, 1940 | Brandanger | 4.624 | Bị đánh chìm | |
| 11 tháng 10, 1940 | Port Gisborne | 8.390 | Bị đánh chìm | |
| 12 tháng 10, 1940 | Davanger | 7.102 | Bị đánh chìm | |
| 17 tháng 10, 1940 | Languedoc | 9.512 | Bị đánh chìm | |
| 17 tháng 10, 1940 | Scoresby | 3.843 | Bị đánh chìm | |
| 18 tháng 10, 1940 | Sandend | 3.612 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 10, 1940 | Shirak | 6.023 | Bị đánh chìm | |
| 1 tháng 2, 1941 | Nicolaos Angelos | 4.351 | Bị đánh chìm | |
| 24 tháng 2, 1941 | Nailsea Lass | 4.289 | Bị đánh chìm | |
| 29 tháng 3, 1941 | Germanic | 5.352 | Bị đánh chìm | |
| 29 tháng 3, 1941 | Limbourg | 2.483 | Bị đánh chìm | |
| 29 tháng 3, 1941 | Hylton | 5.197 | Bị đánh chìm | |
| 2 tháng 4, 1941 | Beaverdale | 9.957 | Bị đánh chìm | |
| 3 tháng 6, 1941 | Inversuir | 9.456 | Bị hư hại | |
| 5 tháng 6, 1941 | Wellfield | 6.054 | Bị đánh chìm | |
| 6 tháng 6, 1941 | Tregarthen | 5.201 | Bị đánh chìm | |
| 8 tháng 6, 1941 | Pendrecht | 10.746 | Bị đánh chìm | |
| 12 tháng 6, 1941 | Empire Dew | 7.005 | Bị đánh chìm |