Tàu ngầmU-471 | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-471 |
| Đặt hàng | 20 tháng 1,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Deutsche Werke,Kiel |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 302 |
| Đặt lườn | 25 tháng 10,1941 |
| Hạ thủy | 6 tháng 3,1943 |
| Nhập biên chế | 5 tháng 5,1943 |
| Tình trạng | Bị cuộc không kích củaKhông lực Lục quân Hoa Kỳ đánh chìm tại cảngToulonĐịa Trung Hải,6 tháng 8,1944[1] |
| Tên gọi | Millé (Q339) |
| Trưng dụng | 1945 |
| Nhập biên chế | 1946 |
| Xuất biên chế | 9 tháng 7,1963 |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 46 834 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-471 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ thực hiện được ba chuyến tuần tra và không đánh chìm được mục tiêu nào. Đang khi neo đậu tại cảngToulon,Pháp vào ngày6 tháng 8,1944,U-471 bị đánh chìm do trúng bom ném từ nhữngmáy bay ném bomB-24 Liberator thuộcKhông lực 15Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Chiếc tàu ngầm được trục vớt năm1945, được sửa chữa và phục vụ cùngHải quân Pháp như là chiếcMillé (Q339) từ năm1946 đến năm1963.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-471 được đặt hàng vào ngày20 tháng 1,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngDeutsche Werke AG ởKiel vào ngày25 tháng 10,1941.[1] Nó được hạ thủy vào ngày6 tháng 3,1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày5 tháng 5,1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Friedrich Kloevekorn.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 5,U-471 được điều sangChi hạm đội U-boat 1 từ ngày1 tháng 11,1943 để hoạt động trên tuyến đầu.[1]
U-471 khởi hành từ cảngKiel, Đức vào ngày27 tháng 11,1943 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữa quần đảoFaroe vàIceland để vòng quaquần đảo Anh và tiến vào khu vực giữaĐại Tây Dương về phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[5] Tại đây vào ngày23 tháng 12, chiếc tàu ngầm bị mộtmáy bay ném bomB-24 Liberator thuộc Liên đội 120Không quân Hoàng gia Anh tấn công, khiến ba thủy thủ bị thương.[1] Nó kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảngBrest bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày30 tháng 1,1944.[3]
U-471 khởi hành từ Brest vào ngày16 tháng 3,1944 cho chuyến tuần tra thứ hai, với ý định sẽ xâm nhập và hoạt động trong khu vựcĐịa Trung Hải. Sau khi thành công trong việc vượt quaeo biển Gibraltar đượclực lượng Đồng Minh phòng thủ nghiêm ngặt vào ngày30 tháng 3, chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảngToulon tại bờ biển Địa Trung Hải của Pháp vào ngày12 tháng 4.[6] Đến ngày1 tháng 5,1944, nó lại được điều sangChi hạm đội U-boat 29 đặt căn cứ tại khu vực Địa Trung Hải.[1]
Trong chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, diễn ra từ ngày18 tháng 5 đến ngày15 tháng 6 và đều xuất phát và kết thúc tại cảng Toulon,U-471 hoạt động dọc bờ biểnBắc Phi, nhưng vẫn không đánh chìm được mục tiêu nào.[7]
Đang khi neo đậu tại cảng Toulon vào ngày6 tháng 8,1944,U-471 bị trúng bom ném từ nhữngmáy bay ném bomB-24 Liberator thuộcKhông lực 15Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Nó đắm tại tọa độ43°07′B05°55′Đ / 43,117°B 5,917°Đ /43.117; 5.917.[1]
Chiếc tàu ngầm được trục vớt năm1945, và được sửa chữa trước khi được đưa vào phục vụ cùngHải quân Pháp như là chiếcMillé (Q339) từ năm1946 cho đến khi được rút đăng bạ vào ngày9 tháng 7,1963.[1]
U-471 từng tham gia sáubầy sói: