Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-431 |
| Đặt hàng | 23 tháng 9,1939 |
| Xưởng đóng tàu | Schichau-Werke,Danzig |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 1472 |
| Đặt lườn | 4 tháng 1,1940 |
| Hạ thủy | 2 tháng 2,1941 |
| Nhập biên chế | 5 tháng 4,1941 |
| Tình trạng | Bị máy bayKhông quân Hoàng gia Anh đánh chìm gầnAlgiers trongĐịa Trung Hải,21 tháng 10,1943[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 40 228 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-431 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã dành hầu hết quãng đời phục vụ để hoạt động tại khu vựcĐịa Trung Hải, thực hiện được mười sáu chuyến tuần tra, đánh chìm được sáu tàu buôn cùng hai tàu chiến và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 7.992 GRT và 3.548 tấn,[Ghi chú 1] đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn và một tàu chiến với tổng tải trọng 3.560 GRT và 450 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-431 bị mộtmáy bay ném bomVickers Wellington củaKhông quân Hoàng gia Anh đánh chìm ngoài khơiAlgiers vào ngày21 tháng 10,1943.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-431 được đặt hàng vào ngày23 tháng 9,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàuSchichau-Werke ởDanzig (nay làGdańsk thuộcBa Lan) vào ngày4 tháng 1,1940.[1] Nó được hạ thủy vào ngày2 tháng 2,1941,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày5 tháng 4,1941[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quânWilhelm Dommes, người được tặng thưởngHuân chương Chữ thập sắt Hiệp sĩ.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 3,U-431 tiếp tục nằm trong thành phần đơn vị nảy để phục vụ trên tuyến đầu.[1]
U-431 di chuyển từ cảngKiel, Đức đến các cảngHorten vàTrondheim thuộcNa Uy vào cuốitháng 6,1941, rồi xuất phát từ Trondheim vào ngày10 tháng 7 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng quakhe GI-UK giữa quần đảoFaroe vàIceland để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại vùng biển giữaBắc Đại Tây Dương về phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[5] Nó không đánh chìm được mục tiêu nào, và kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảngSt. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày11 tháng 8.[3]
U-431 thực hiện chuyến tuần tra thứ hai, cùng xuất phát kết thúc tại căn cứ St. Nazaire, từ ngày13 tháng 9 đến ngày12 tháng 10, để hoạt động trong Bắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[6] Vào ngày2 tháng 10, nó phóng ngư lôi đánh chìm chiếc tàu buôn AnhHatasu 3.198 GRT ở vị trí khoảng 540 nmi (1.000 km) về phía Đông Bắcmũi Race,Newfoundland.[7]
U-431 khởi hành từ St. Nazaire vào ngày16 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ ba, với nhiệm vụ chuyển sang hoạt động trong vùng biểnĐịa Trung Hải. Sau khi thành công trong việc vượt quaeo biển Giraltar đượclực lượng Đồng Minh canh phòng nghiêm ngặt vào ngày24 tháng 11, chiếc tàu ngầm đi sang khu vực Đông Địa Trung Hải để hoạt động ngoài khơi bờ biểnAi Cập.[8] Tại đây vào ngày13 tháng 12 nó đã phóng ngư lôi tấn công và gây hư hại cho chiếctàu chở dầu AnhMyriel 3.560 GRT ở vị trí khoảng 14 nmi (26 km) về phía BắcEl Alamein, Ai Cập.[9] Chiếc U-boat kết thúc chuyến tuần tra tại cảngLa Spezia,Ý vào ngày20 tháng 12.[3]
U-431 được chính thức điều sangChi hạm đội U-boat 29 từ ngày1 tháng 1,1942 để hoạt động trong khu vực Địa Trung Hải,[1] và đã di chuyển từ La Spezia đếnMessina,Sicilia vào cuốitháng 1.[3]
Chiếc tàu ngầm xuất phát từ Messina vào ngày25 tháng 1 cho chuyến tuần tra thứ tư, và đã tiếp tục hoạt động ở khu vực Đông Địa Trung Hải.[10] Vào ngày29 tháng 1, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu TA-21 và đã đánh chìm chiếc tàu đánh cá vũ trang Anh HMSSotra (313 tấn) ở vị trí ngoài khơiBardia,Libya.[11] Đến ngày6 tháng 2, nó phóng hai quả ngư lôi tấn công một tàu ngầmAnh đang di chuyển trên mặt nước, nhưng không trúng đích. Rất có thể đó là chiếcHMSThunderbolt lúc đó đang giao chiến với một tàu U-boat khác ở vị trí về phía BắcTobruk, Libya.[10]U-431 kết thúc chuyến tuần tra tại cảng La Spezia vào ngày10 tháng 2.[3]
U-431 thực hiện chuyến tuần tra tiếp theo, cùng xuất phát và kết thúc tại La Spezia, từ ngày18 tháng 3 đến ngày15 tháng 4. Nó tiếp tục hoạt động ngoài khơi Libya và Ai Cập, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào.[12]
U-431 rời La Spezia vào ngày14 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ sáu để lại hoạt động ngoài khơi Libya và Ai Cập.[13] Vào ngày20 tháng 5, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu AT-46 và đã đánh chìm chiếctàu chở dầu AnhEocene 4.216 GRT ở vị trí khoảng 13 nmi (24 km) về phía Đông Bắc Bardia.[14] Khi kết thúc chuyến tuần tra vào ngày30 tháng 5, chiếc U-boat đi đến căn cứ tạiđảo Salamis,Hy Lạp.[3]
U-431 khởi hành từ Salamis vào ngày4 tháng 6 cho chuyến tuần tra thứ bảy, và quay trở lại vùng biển quen thuộc ngoài khơi Libya và Ai Cập.[15] Nó tấn công mộtsà lan ở vị trí về phía Bắc Tobruk vào ngày15 tháng 6, rất có thể đã gây hư hại cho tàu đổ bộ HMSLCT-119 (450 tấn).[16] Chiếc tàu ngầm đi đến La Spezia vào ngày20 tháng 6.[3]
Chuyến tuần tra thứ tám củaU-431, cùng xuất phát và kết thúc tại La Spezia, được tiến hành từ ngày2 đến ngày27 tháng 9. Chiếc U-boat chuyển sang hoạt động tại khu vựcBắc Phi ngoài khơi bờ biểnAlgérie, nhưng đã không đánh chìm được mục tiêu nào.[17]
Chiếc tàu ngầm lại có chuyến tuần tra tương tự tiếp theo từ ngày29 tháng 9 đến ngày4 tháng 11. Tuy nhiên lần này nó bị hư hại do một máy bay đối phương tấn công ở vị trí ngoài khơiAlgiers vào ngày3 tháng 11, và buộc phải quay trở về căn cứ.[18]
U-431 xuất phát từ La Spezia vào ngày7 tháng 11 cho chuyến tuần tra thứ mười nhằm đối phóChiến dịch Torch, cuộc đổ bộ củalực lượng Đồng Minh lên Bắc Phi.[19] Vào ngày10 tháng 11, nó phóng ngư lôi tấn công Lực lượng H của Anh đang bảo vệ cho cuộc đổ bộ, đánh chìm đượctàu khu trục AnhHMS Martin (1.920 tấn) ở vị trí về phía Đông Bắc Algiers.[20] Ba ngày sau đó, chiếc U-boat tiếp tục đánh chìm tàu khu trụcHNLMSIsaac Sweers (1.628 tấn) củaHải quân Hoàng gia Hà Lan.[21] Kết thúc chuyến tuần tra, chiếc tàu ngầm đi đến cảngPola, Ý (nay làPula thuộcCroatia) vào ngày22 tháng 11.[3]
Trong chuyến tuần tra thứ mười một, cùng xuất phát và kết thúc tại Pola và kéo dài từ ngày7 tháng 1 đến ngày8 tháng 2,1943,U-431 quay trở lại khu vực Đông Địa Trung Hải để hoạt động ngoài khơi Ai Cập,Palestine vàLiban.Từ ngày23 đến ngày26 tháng 1, nó đã lần lượt đánh chìm thuyền buồm Ai CậpAlexandria 100 GRT cùng các thuyền buồmSyriaMouyassar 47 GRT,Omar el Kattab 38 GRT vàHassan 80 GRT.[22]
Chiếc tàu ngầm khởi hành từ Pola cho chuyến tuần tra tiếp theo vào ngày11 tháng 3, nhưng quay trở lại hoạt động tại vùng biển Bắc Phi. Không đánh chìm được mục tiêu nào,U-431 kết thúc chuyến tuần tra khi đi đến cảngToulon ở miền Nam nước Pháp vào ngày29 tháng 3. Nơi đây trở thành căn cứ hoạt động chính của chiếc U-boat cho đến khi nó bị mất.[23]
U-431 sau đó có một chuyến tuần tra ngắn thứ mười ba đến vùng biển Địa Trung Hải ngoài khơi Algérie từ ngày20 đến ngày29 tháng 5.[24]
Chuyến tuần tra tiếp theo được chiếc tàu ngầm tiến hành tại vùng biển Địa Trung Hải ngoài khơiMaroc từ ngày5 đến ngày27 tháng 6.[25]
U-431 xuất phát từ Toulon vào ngày9 tháng 8 cho chuyến tuần tra thứ mười lăm, và đã hoạt động về phía Tây đảoSardegna và phía Bắc đảoSicilia cho đến ngày1 tháng 9.[26]
U-431 rời cảng Toulon vào ngày26 tháng 9 cho chuyến tuần tra thứ mười sáu, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động dọc theo bờ biểnAlgérie, Bắc Phi.[27] Ở vị trí về phía ĐôngCartagena,Tây Ban Nha (phía Tây BắcAlgiers), nó bị mộtmáy bay ném bomVickers Wellington thuộc Liên đội 179Không quân Hoàng gia Anh xuất phát từGibraltar thảmìn sâu tấn công, và bị đánh chìm tại tọa độ37°23′B00°35′Đ / 37,383°B 0,583°Đ /37.383; 0.583.[1] Toàn bộ 52 thành viên thủy thủ đoàn củaU-431 đều đã tử trận.[1]
U-431 từng tham gia mộtbầy sói:
U-431 đã đánh chìm được sáu tàu buôn cùng hai tàu chiến và một tàu chiến phụ trợ với tổng tải trọng 7.992 GRT và 3,548 tấn:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng | Số phận[28] |
|---|---|---|---|---|
| 2 tháng 10, 1941 | Hatasu | 3.198 | Bị đánh chìm | |
| 13 tháng 12, 1941 | Myriel | 3.560 | Bị hư hại | |
| 29 tháng 1, 1942 | HMSSotra | 313 | Bị đánh chìm | |
| 20 tháng 5, 1942 | Eocene | 4.216 | Bị đánh chìm | |
| 15 tháng 6, 1942 | HMSLCT-119 | 450 | Bị hư hại | |
| 10 tháng 11, 1942 | HMS Martin | 1.920 | Bị đánh chìm | |
| 13 tháng 11, 1942 | HNLMSIsaac Sweers | 1.628 | Bị đánh chìm | |
| 23 tháng 1, 1943 | Alexandria | 100 | Bị đánh chìm | |
| 25 tháng 1, 1943 | Mouyassar | 47 | Bị đánh chìm | |
| 25 tháng 1, 1943 | Omar el Kattab | 38 | Bị đánh chìm | |
| 26 tháng 1, 1943 | Hassan | 80 | Bị đánh chìm |