Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-419 |
| Đặt hàng | 20 tháng 1,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Danziger Werft,Danzig |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 120 |
| Đặt lườn | 7 tháng 11,1941 |
| Hạ thủy | 22 tháng 8,1942 |
| Nhập biên chế | 18 tháng 11,1942 |
| Tình trạng | Bị máy bayKhông quân Hoàng gia Anh đánh chìm tạiBắc Đại Tây Dương,8 tháng 10,1943[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 51 062 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-419 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1942, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và không đánh chìm được mục tiêu nào trước khi bị mộtmáy bay ném bomB-24 Liberator củaKhông quân Hoàng gia Anh đánh chìm tạiBắc Đại Tây Dương vào ngày8 tháng 10,1943.[1]

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-419 được đặt hàng vào ngày20 tháng 1,1941,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàuDanziger Werft ởDanzig (nay làGdańsk thuộcBa Lan) vào ngày7 tháng 11,1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày22 tháng 8,1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày18 tháng 11,1942[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Dietrich Giersberg.[2]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-419 được điều động sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 8,1943 để hoạt động trên tuyến đầu.[2] Nó di chuyển từ cảngKiel, Đức đến cảngBergen,Na Uy vào đầutháng 9, rồi xuất phát từ đây vào ngày13 tháng 9 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh. Chiếc tàu ngầm đã tiến raBắc Hải, rồi băng quakhe GI-UK giữa quần đảoFaroe vàIceland để vòng quaquần đảo Anh và tiến vàoĐại Tây Dương.[6]
Đến ngày8 tháng 10, ở vị trí về phía Đông Nammũi Farewell,Greenland,U-419 bị mộtmáy bay ném bomB-24 Liberator thuộc Liên đội 86Không quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu tấn công, và bị đánh chìm tại tọa độ56°31′B27°05′T / 56,517°B 27,083°T /56.517; -27.083. 48 thành viên thủy thủ đoàn củaU-419 đã tử trận, và chỉ có một người duy nhất sống sót.[2]
U-419 từng tham gia mộtbầy sói: