Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-408 |
| Đặt hàng | 16 tháng 10,1939 |
| Xưởng đóng tàu | Danziger Werft,Danzig |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 109 |
| Đặt lườn | 30 tháng 9,1940 |
| Hạ thủy | 16 tháng 7,1941 |
| Nhập biên chế | 19 tháng 11,1941 |
| Tình trạng | Bị mộtthủy phi cơPBY Catalina Hoa Kỳ đánh chìm phía BắcIceland,5 tháng 11,1942[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 47 966 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | 3 tàu buôn bị đánh chìm (19.689 GRT) |
U-408 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được ba chuyến tuần tra và đánh chìm được ba tàu buôn với tổng tải trọng 19.689 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-408 bị mộtthủy phi cơPBY Catalina củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm trongbiển Na Uy về phía BắcIceland vào ngày5 tháng 11,1942.[1]

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-408 được đặt hàng vào ngày16 tháng 10,1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàuDanziger Werft ởDanzig (nay làGdańsk thuộcBa Lan) vào ngày30 tháng 9,1940.[2] Nó được hạ thủy vào ngày16 tháng 7,1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày19 tháng 11,1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Thiếu tá Hải quân Reinhard von Hymmen.[2]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phẩnChi hạm đội U-boat 5,U-408 được điều động sangChi hạm đội U-boat 9 từ ngày1 tháng 5,1942 để hoạt động trên tuyến đầu, rồi lại được điều động sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 7,1942.[2]
Sau khi di chuyển từ cảngKiel, Đức đếnSkjomenfjord,Na Uy vào cuốitháng 5,U-408 xuất phát từ đây vào ngày7 tháng 6 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó đã hoạt động trong các vùngbiển Na Uy vàbiển Barents, nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào, rồi kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Skjomenfjord vào ngày16 tháng 7.[6]
U-408 thực hiện chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày10 đến ngày26 tháng 9, cùng xuất phát và kết thúc tại Skjomenfjord, và đã hoạt động trong biển Barents cho đến tận phía NamSvalbard và ngoài khơibán đảo Kola,Liên Xô.[7]
Trong ngày13 tháng 9, ở vị trí khoảng 100 nmi (190 km) về phía Tây NamSpitsbergen, nó đã phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu PQ-18, đánh chìm các tàu buôn Liên XôStalingrad 3.559 GRT[8] và tàu buôn Hoa KỳOliver Ellsworth 7.191 GRT cùng tại tọa độ75°52′B07°55′Đ / 75,867°B 7,917°Đ /75.867; 7.917.[9] Sang ngày hôm sau14 tháng 9, ở vị trí về phía Tây Namđảo Bear, nó tiếp tục đánh chìmtàu chở dầu AnhAtheltemplar 8.939 GRT, vốn bị rớt lại phía sau Đoàn tàu PQ-18, tại tọa độ76°10′B18°00′Đ / 76,167°B 18°Đ /76.167; 18.000.[10]
U-408 xuất phát từ cảngNarvik, Na Uy vào ngày31 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ ba, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong vùng biển Na Uy hướng raeo biển Đan Mạch giữaIceland vàGreenland.[11] Ở vị trí về phía Bắc Iceland vào ngày5 tháng 11, chiếc tàu ngầm bị mộtthủy phi cơPBY Catalina thuộc Liên đội Tuần tra VBP-848Hải quân Hoa Kỳ thảmìn sâu tấn công, và bị đánh chìm tại tọa độ67°40′B18°32′T / 67,667°B 18,533°T /67.667; -18.533.[2] Toàn bộ 45 thành viên thủy thủ đoàn củaU-408 đều tử trận.[2]
U-408 từng tham gia haibầy sói:
U-408 đã đánh chìm được ba tàu buôn có tổng tải trọng 19.689 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[12] |
|---|---|---|---|---|
| 13 tháng 9, 1942 | Oliver Ellsworth | 7.191 | Bị đánh chìm | |
| 13 tháng 9, 1942 | Stalingrad | 3.559 | Bị đánh chìm | |
| 14 tháng 9, 1942 | Atheltemplar | 8.939 | Bị đánh chìm |