Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-405 |
| Đặt hàng | 16 tháng 10,1939 |
| Xưởng đóng tàu | Danziger Werft,Danzig |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 106 |
| Đặt lườn | 8 tháng 7,1940 |
| Hạ thủy | 4 tháng 6,1941 |
| Nhập biên chế | 17 tháng 9,1941 |
| Tình trạng | Bịtàu khu trụcHoa KỳUSS Borie đánh chìm trongĐại Tây Dương,1 tháng 11,1943[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 35 435 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: |
|
U-405 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1941, nó đã thực hiện được tám chuyến tuần tra, đánh chìm được hai tàu buôn với tổng tải trọng 11.841 GRT cùng ba tàu chiến với tổng tải trọng 361 tấn. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-405 bịtàu khu trụcHoa KỳUSS Borie đánh chìm trongĐại Tây Dương vào ngày1 tháng 11,1943.[1]

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-405 được đặt hàng vào ngày16 tháng 10,1939,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàuDanziger Werft ởDanzig (nay làGdańsk thuộcBa Lan) vào ngày8 tháng 7,1940.[2] Nó được hạ thủy vào ngày4 tháng 6,1941,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày17 tháng 9,1941[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Thiếu tá Hải quân Rolf-Heinrich Hopman.[2]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phẩnChi hạm đội U-boat 8,U-405 được điều sangChi hạm đội U-boat 1 từ ngày1 tháng 3,1942 để hoạt động trên tuyến đầu.[2] Nó lại được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 7, và cuối cùng sangChi hạm đội U-boat 6 từ ngày1 tháng 3,1943.[2]
Sau khi di chuyển từ cảngKiel, Đức đếnTrondheim vào cuốitháng 2,1942,U-405 xuất phát từ cảngNa Uy này vào ngày7 tháng 3 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Sau khi hoạt động trongbiển Na Uy mà không đánh chìm được mục tiêu nào, nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trondheim vào ngày22 tháng 3.[6]
U-405 khởi hành từ cảng Trondheim vào ngày26 tháng 4 cho chuyến tuần tra thứ hai, và đã trongbiển Barents ngoài khơibán đảo Kola. Nó kết thúc chuyến tuần tra tại cảngSkjomenfjord, Na Uy vào ngày10 tháng 5,[7] và đến cuốitháng 5 đã di chuyển đến cảngBergen, Na Uy, rồi quay trở lại Kiel.[4]
Rời Kiel vào ngày16 tháng 7 cho chuyến tuần tra tiếp theo,U-405 đã hoạt động dọc bờ biểnGreenland cho đến phía Nam quần đảoSvalbard và vòng qua biển Barents trước khi kết thúc chuyến tuần tra tại Skjomenfjord vào ngày16 tháng 8.[8]
Trong chuyến tuần tra thứ tư, cùng xuất phát và kết thúc tại Skjomenfjord và diễn ra từ ngày26 tháng 8 đến ngày20 tháng 9,U-405 tiếp tục hoạt động trong khu vực phía Bắc biển Na Uy và trong biển Barents.[9] Nó tiếp tục đi đến cảng Bergen vào cuốitháng 9 sau khi kết thúc chuyến tuần tra.[4]
Đến đầutháng 11,U-405 di chuyển từ cảng Bergen đến Skjomenfjord, rồi lên đường từ đây cho chuyến tuần tra thứ năm từ ngày11 tháng 11 để hoạt động trong biển Na Uy cho đến tận phía Nam quần đảo Svalbard. Nó quay trở về căn cứ Bergen vào ngày15 tháng 12.[10]
Khởi hành từ cảng Bergen vào ngày7 tháng 2,1943 cho chuyến tuần tra thứ sáu, đây là chuyến tuần tra duy nhất màU-405 đánh chìm được tàu bè đối phương. Nó đã băng quakhe GIUK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại vùng biểnBắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[11] Vào ngày28 tháng 2, ở vị trí khoảng 250 nmi (460 km) về phía Đôngmũi Farewell, Greenland, nó đã phóng ngư lôi tấn công và đánh chìmtàu Liberty Hoa Kỳ SSWade Hampton 7.176 GRT, vốn bị tách rời khỏi Đoàn tàu HX-227 và đang trong hành trình từNew York sangMurmansk, vận chuyển 8.000 tấn hàng hóa, bao gồm hai xuồng phóng lôiPT boat (RPT-1 và RPT-3).[12]
Chín ngày sau đó9 tháng 3, chiếc tàu ngầm lại phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu SC-121, và đánh chìm tàu buôn Na UyBonneville 4.665 GRT, vốn đang trong hành trình từ New York sangLiverpool với hơn 7.000 tấn hàng hóa, bao gồm xuồng đổ bộLCT HMSLCT-2341, tại tọa độ58°45′B21°57′T / 58,75°B 21,95°T /58.750; -21.950.[13] Kết thúc chuyến tuần tra,U-405 đi đến cảngSt. Nazaire bên bờ Đại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày23 tháng 3.[4]
U-405 xuất phát từ St. Nazaire vào ngày2 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ bảy, kéo dài cho đến ngày21 tháng 5.[14] Chiếc tàu ngầm chỉ mới rời cảng được hai ngày và vẫn còn đang trongvịnh Biscay khi nó bị mộtmáy bay ném bomHandley Page Halifax thuộc Liên đội 502Không quân Hoàng gia Anh tấn công. Ba quả bom ném xuống đã khiến chiếc U-boat bị rò rỉ dầu mà không thể sửa chữa, đến mức hạm trưởng củaU-405 buộc phải kết thúc chuyến tuần tra vào ngày12 tháng 5.[2] Trên đường quay trở về căn cứ vào ngày18 tháng 5, nó lại bị mộtthủy phi cơShort Sunderland thuộc Liên đội 10Không quân Hoàng gia Australia tấn công. Tuy nhiên lần này chiếc tàu ngầm thoát được mà không chịu thêm hư hại.[2]
U-405 thực hiện các chuyến đi ngắn từ cảng St. Nazaire trongtháng 8 vàtháng 9[4] trước khi lên đường vào ngày10 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ tám, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong vùng biển Bắc Đại Tây Dương về phía ĐôngNewfoundland,Canada.[15]
Vào ngày1 tháng 11,U-405 đụng độ vớitàu khu trụcHoa KỳUSS Borie ở vị trí về phía Bắc quần đảoAzores, tại tọa độ49°00′B31°14′T / 49°B 31,233°T /49.000; -31.233. Chiếc tàu khu trục đã thảmìn sâu tấn công, buộc chiếc tàu ngầm phải trồi lên mặt nước. Sau đóBorie di chuyển đổi hướng và húc trúngU-405, khiến hai đối thủ tạm thời dính chặt vào nhau, và một cuộc đụng độ kỳ quặc diễn ra. Ở khoảng cách cực gần, chiếc tàu khu trục không thể hạ thấp các nòng pháo 4 inch (100 mm) và 3 inch (76 mm) đủ thấp để bắn trúng đối phương, và thủy thủ trên tàu chỉ có một số lượng hạn chế vũ khí nhẹ. Phía bên Đức, khẩu hải pháo 8,8 cm (3,5 in) trên boong tàu không được trang bị giáp che chắn, nên thủy thủ Đức chịu đựng thương vong khi họ tìm cách vận hành khẩu hải pháo.[1]
Khi hai đối thủ tách được nhau ra, khoảng 35 trong số 49 thành viên thủy thủ đoànU-405 đã thương vong hay rơi xuống biển.Borie bị hư hại nặng và di chuyển với tốc độ chậm, còn chiếc U-boat vẫn có thể cơ động với tốc độ tương đương nhưng có bán kính xoay vòng hẹp hơn nên dễ dàng né tránh đối thủ.Borie đánh lừa đối phương bằng cách tắt hết đèn, nênU-405 tưởng rằng họ có cơ hội chạy thoát. KhiBorie bật đèn pha trở lại, khoảng cách giữa hai đối thủ đủ rộng, vàBorie tấn công mục tiêu bằng hải pháo vàmìn sâu, khiếnU-405 chết đứng giữa biển và thủy thủ bắt đầu bỏ tàu để lên các bè cứu sinh. Người cuối cùng rời tàu đội mũ sĩ quan.U-405 chìm dần với phần đuôi trước lúc 02 giờ 57 phút, và phát nổ dưới nước, có thể bởi các khối chất nổ được cài đặt để đánh đắm tàu bởi người sĩ quan cuối cùng rời tàu.[16]
Thủy thủ Đức trên các bè cứu sinh bắn pháo sáng ra hiệu, nên thủy thủ trênBorie tin rằng họ ra dấu hiệu cầu cứu, và bắt đầu tiếp cận các bè cứu sinh ở khoảng cách 50–60 yd (46–55 m) bên mạn trái và chuẩn bị cứu vớt. Thực ra các thủy thủ Đức ra hiệu cho một tàu U-boat khác đang đi trên mặt nước gần đó, và chiếc U-boat trả lời bằng một phát pháo sáng bắn lên. Khi một trinh sát viên bên trênBorie phát hiện một quảngư lôi đang tiếp cận, chiếc tàu khu trục buộc phải cơ động né tránh bằng cách đâm thẳng vào các bè cứu sinh, và sau đó chạy zig-zag rút lui, từ bỏ ý định cứu vớt những người sống sót. Cả hai phía đều không ghi nhận đã cứu vớt được người nào sống sót, nên toàn bộ 49 thành viên thủy thủ đoàn củaU-405 đều đã tử trận cùng con tàu.[2][16]
Borie bị tổn thất ba sĩ quan và 24 thủy thủ, và nó bị hư hại nặng do cú va chạm với chiếc U-boat đến mức không thể kéo trở về cảng. Sang ngày hôm sau, thủy thủ đoàn bỏ tàu, vàBorie bị tàu khu trụcUSS Barry phóng ngư lôi đánh đắm.[17]
U-405 từng tham gia chínbầy sói:
U-405 đã đánh chìm được hai tàu buôn tổng tải trọng 11.841 GRT cùng ba tàu chiến với tổng tải trọng 361 tấn:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[18] |
|---|---|---|---|---|
| 28 tháng 2, 1943 | Wade Hampton | 7,176 | Bị đánh chìm | |
| 28 tháng 2, 1943 | RPT-1[Ghi chú 2] | 35 | Bị đánh chìm | |
| 28 tháng 2, 1943 | RPT-3[Ghi chú 2] | 35 | Bị đánh chìm | |
| 9 tháng 3, 1943 | Bonneville | 4.665 | Bị đánh chìm | |
| 9 tháng 3, 1943 | HMSLCT 2341[Ghi chú 3] | 291 | Bị đánh chìm |
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)