Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-386 |
| Đặt hàng | 15 tháng 8,1940 |
| Xưởng đóng tàu | Howaldtswerke,Kiel |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 17 |
| Đặt lườn | 16 tháng 5,1941 |
| Hạ thủy | 19 tháng 8,1942 |
| Nhập biên chế | 10 tháng 10,1942 |
| Tình trạng | Bịtàu frigateAnhHMS Spey đánh chìm ngoài khơi đảoIslay,Scotland,19 tháng 2,1944[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 50 010 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | 1 tàu buôn bị đánh chìm (1.997 GRT) |
U-386 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1942, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 1.997 GRT. Trong chuyến tuần tra cuối cùng,U-386 bịtàu frigateAnhHMS Spey đánh chìm về phía Bắc đảoIslay,Scotland vào ngày19 tháng 2,1944.[1]

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-386 được đặt hàng vào ngày15 tháng 8,1940,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngHowaldtswerke ởKiel vào ngày16 tháng 5,1941.[2] Nó được hạ thủy vào ngày19 tháng 8,1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày10 tháng 10,1942[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Hans-Albrecht Kandler.[2]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 5,U-386 được điều sangChi hạm đội U-boat 6 từ ngày1 tháng 5,1943 để hoạt động trên tuyến đầu.[2]
U-386 khởi hành từ Kiel vào ngày15 tháng 4,1942 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng quakhe GIUK giữaIceland và quần đảoFaroe để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động trong vùng biển phía TâyIreland (Khu vực Tiếp cận phía Tây).[6] Trên đường đi ở vị trí về phía Nam Iceland vào ngày25 tháng 4, nó tấn công chiếc tàu buôn AnhRosenborg 1.997 GRT, vốn bị tách khỏi Đoàn tàu RU-71. Hai quảngư lôi trúng đích đã đánh chìm mục tiêu chỉ trong vòng 30 giây, tại tọa độ61°00′B15°00′T / 61°B 15°T /61.000; -15.000. Có 28 người đã thiệt mạng cùng con tàu, và hai người sống sót được cứu vớt.[7] Ba ngày sau đó,28 tháng 4, chiếc tàu ngầm tìm cách tấn công Đoàn tàu ONS-5, nhưng bị các tàu hộ tống phản công bằngmìn sâu, và bị hư hại đáng kể.[2]U-386 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngSt. Nazaire bên bờĐại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày11 tháng 5. Nơi đây trở thành căn cứ hoạt động chính của chiếc tàu ngầm trong suốt quãng đời hoạt động còn lại.[4]
Từ ngày29 tháng 6 đến ngày8 tháng 7,U-386 có chuyến tuần tra ngắn tại vùng biển phía TâyBồ Đào Nha, nhưng không bắt gặp mục tiêu nào giá trị.[8]
U-386 lại xuất phát từ cảng St. Nazaire vào ngày29 tháng 8 cho chuyến tuần tra tiếp theo, và hoạt động tại khu vực giữaBắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[9] Trên đường đi ngoài khơimũi Finisterre,Tây Ban Nha vào ngày6 tháng 9, nó tàu ngầm bất ngờ bị một máy bay không rõ nhận dạng tấn công; nó bị bất ngờ vìbộ dò radarWanze đã không phát hiện được đối phương.[9] Đến ngày20 tháng 9, ở vị trí về phía Tây Nam Iceland, chiếc U-boat bị mộtmáy bay ném bomB-24 Liberator thuộc Liên đội 120Không quân Hoàng gia Anh tấn công. Phía Anh tin rằng quả ngư lôiFIDO Mark 24 dò âm thả xuống đã đánh chìm được tàu ngầmU-338, nhưng thực ra mục tiêu chính làU-386, và nó thoát được mà không bị hư hại.[9] Sang ngày hôm sau21 tháng 9, chiếc U-boat tìm cách tấn công Đoàn tàu ON-202 giữa Đại Tây Dương, nhưng bị các tàu hộ tống phản công bằngmìn sâu ngăn chặn.[9]U-386 quay về cảng St. Nazaire vào ngày8 tháng 10.[4]

U-386 khởi hành từ cảng St. Nazaire vào ngày26 tháng 12,1943 cho chuyến tuần tra thứ tư, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại Khu vực Tiếp cận phía Tây.[10] Đến ngày26 tháng 1,1944, chiếc tàu ngầm đang ở vị trí ngoài khơi bờ biển phía TâyScotland về phía Bắc đảoIslay khi bịtàu frigateHMS Spey tấn công.Mìn sâu thả xuống đã đánh chìmU-386 tại tọa độ48°51′B22°44′T / 48,85°B 22,733°T /48.850; -22.733. 33 thành viên thủy thủ đoàn củaU-386 đã tử trận, và có 16 người sống sót được cứu vớt và bị bắt làmtù binh chiến tranh.[11][2]
U-386 từng tham gia nămbầy sói:
U-386 đã đánh chìm được một tàu buôn tải trọng 1.997 GRT:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[12] |
|---|---|---|---|---|
| 25 tháng 4, 1943 | Rosenborg | 1.997 | Bị đánh chìm |