U-995, một chiếc Type VIIC/41 tiêu biểu, hiện làtàu bảo tàng tạiLaboe, Đức | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-326 |
| Đặt hàng | 16 tháng 7,1942 |
| Xưởng đóng tàu | Flender Werke,Lübeck |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 326 |
| Đặt lườn | 26 tháng 4,1943 |
| Hạ thủy | 22 tháng 4,1944 |
| Nhập biên chế | 6 tháng 6,1944 |
| Tình trạng | Bị mộtthủy phi cơPBY Catalina củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm trongvịnh Biscay,30 tháng 4,1945[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC/41 |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 14 594 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-326 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC/41 đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1944, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và không đánh chìm được mục tiêu nào, trước khi bị mộtthủy phi cơPBY Catalina củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm trongvịnh Biscay vào ngày30 tháng 4,1945.

Phân lớp VIIC/41 củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIC được cải tiến nhẹ có trọng ượng chung nhẹ hơn. Chúng cótrọng lượng choán nước 759 t (747tấn Anh) khi nổi và 860 t (850 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Với lườn áp lực chắn chắn hơn, phân lớp VIIC/41 có khả năng lặn sâu đến 250 m (820 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35, một pháo phòng không3,7 cm (1,5 in) Flak M42 cùng hai pháo phòng không2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-326 được đặt hàng vào ngày16 tháng 7,1942,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàuFlender Werke ởLübeck vào ngày26 tháng 4,1943.[1] Nó được hạ thủy vào ngày22 tháng 4,1944,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày6 tháng 6,1944[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Peter Matthes.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 4,U-326 được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 3,1945 để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi bị mất.[1]
Vào cuốitháng 2 và đầutháng 3,1945,U-326 đã di chuyển từ cảngKiel Đức lần lượt đến các cảngHorten,Stavanger vàBergen cùng thuộcNa Uy.[3] Nó xuất phát từ Bergen vào ngày28 tháng 3 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh, băng quakhe GI-UK giữa cácquần đảo Shetland vàFaroe để vòng quaquần đảo Anh và hoạt động tại vùng biểnBắc Đại Tây Dương về phía Tây NamIreland và phía Tâyeo biển Manche. Tuy nhiên chiếc U-boat đã không đánh chìm được mục tiêu nào.[5]
Trongvịnh Biscay vào ngày30 tháng 4, chiếc U-boat bị mộtthủy phi cơPBY Catalina thuộc Liên đội VP-63Hải quân Hoa Kỳ ném bom đánh chìm ở vị trí về phía TâyBrest,Pháp, tại tọa độ47°51′B06°46′T / 47,85°B 6,767°T /47.850; -6.767.[1][6] Toàn bộ 43 thành viên thủy thủ đoàn củaU-326 đều đã tử trận.[1]