U-293 đang trên đường đầu hàng trong biển Skagerrak dưới sự giám sát của một máy bay B-24 Liberator RAF, ngày 8 tháng 5 năm 1945. | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-293 |
| Đặt hàng | 14 tháng 10,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft,Bremen-Vegesack |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 58 |
| Đặt lườn | 17 tháng 11,1942 |
| Hạ thủy | 30 tháng 7,1943 |
| Nhập biên chế | 8 tháng 9,1943 |
| Tình trạng |
|
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC/41 |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 54 412 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | 1 tàu chiến bị hư hại (1.658 tấn) |
U-293 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC/41 đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó đã thực hiện được sáu chuyến tuần tra và gây hư hại cho một tàu chiến tải trọng 1.658 tấn.U-293 đã sống sót qua Thế Chiến II, đầu hànglực lượng Đồng Minh tạiLoch Eriboll,Scotland vào ngày11 tháng 5,1945, và cuối cùng bị đánh đắm ngoài khơiBắc Ireland trong khuôn khổChiến dịch Deadlight vào ngày13 tháng 12,1945.

Phân lớp VIIC/41 củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIC được cải tiến nhẹ có trọng ượng chung nhẹ hơn. Chúng cótrọng lượng choán nước 759 t (747tấn Anh) khi nổi và 860 t (850 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Với lườn áp lực chắn chắn hơn, phân lớp VIIC/41 có khả năng lặn sâu đến 250 m (820 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35, một pháo phòng không3,7 cm (1,5 in) Flak M42 cùng hai pháo phòng không2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-293 được đặt hàng vào ngày14 tháng 10,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàuVegesacker Werft ởBremen-Vegesack vào ngày17 tháng 11,1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày30 tháng 7,1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày8 tháng 9,1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Leonhard Klingspor.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-293 được điều sangChi hạm đội U-boat 9 từ ngày1 tháng 4,1944 để hoạt động trên tuyến đầu.[1] Nó lại được điều sangChi hạm đội U-boat 11 từ ngày1 tháng 8,1944,[1] và cuối cùng sangChi hạm đội U-boat 13 từ ngày5 tháng 9,1944 cho đến hết chiến tranh.[1]
Từ đầutháng 5 đến giữatháng 9,U-293 đã di chuyển từ cảngKiel, Đức và qua lại giữa các cảngArendal,Bergen,Trondheim vàStavanger cùng thuộcNa Uy.[3] Nó xuất phát từ Trondheim vào ngày16 tháng 9 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh để hoạt động dọc theo bờ biển Na Uy, và kết thúc chuyến tuần tra tại cảngNarvik, Na Uy vào ngày22 tháng 9.[5]
Dưới quyền chỉ huy của hạm trưởng mới,Trung úy Hải quân Erich Steinbrink,[1]U-293 khởi hành từ căn cứ Narvik vào ngày1 tháng 1,1945 cho chuyến tuần tra thứ năm, và tiếp tục hoạt động tại vùng biển Bắc Cực ngoài khơi Liên Xô,[6] nơi vào ngày20 tháng 1, nó ghi được chiến công duy nhất trong chiến tranh. Lúc khoảng 10 giờ 55 phút,tàu khu trụcLiên XôRazyaryonny đang di chuyển với tốc độ 16 kn (30 km/h) để hộ tống cho Đoàn tàu KP-1, và tìm cách phối hợp cùng tàu khu trụcRazumny trong hoạt độngchống ngầm khi nó trúngngư lôi phóng từU-293. Vụ nổ đã phát hủy toàn bộ phần đuôi tàu củaRazyaryonny, nhưng thủy thủ đoàn đã nỗ lực giữ cho nó tiếp tục nổi, và kéo quay trở về căn cứ vào ngày hôm sau.[7]U-293 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Narvik vào ngày15 tháng 2.[3]
U-293 lại xuất phát từ cảng Narvik vào ngày1 tháng 4,1945 cho chuyến tuần tra thứ sáu, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động trong biển Na Uy.[8] Vào giai đoạn cuối cùng của cuộc xung đột, khiĐức Quốc Xã buộc phảichấp nhận đầu hàng, chiếc U-boat đã đi đến cảng Đồng Minh gần nhất tạiLoch Eriboll,Scotland và đầu hànglực lượng Đồng Minh tại đây vào ngày11 tháng 5,1945.[1]
Chiếc tàu ngầm cuối cùng bị đánh đắm vào ngày13 tháng 12,1945 trong khuôn khổChiến dịch Deadlight ở vị trí ngoài khơiBắc Ireland, tại tọa độ55°50′B10°05′T / 55,833°B 10,083°T /55.833; -10.083.[1]
U-293 từng tham gia bảybầy sói:
U-293 đã gây hư hại cho một tàu chiến tải trọng 1.658 tấn:
| Ngày | Tên tàu | Quốc tịch | Tải trọng[Ghi chú 1] | Số phận[9] |
|---|---|---|---|---|
| 20 tháng 1, 1945 | Razyaryonny | 1.658 | Bị hư hại |