Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-289 |
| Đặt hàng | 5 tháng 6,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft,Bremen |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 54 |
| Đặt lườn | 12 tháng 9,1942 |
| Hạ thủy | 25 tháng 5,1942 |
| Nhập biên chế | 10 tháng 7,1943 |
| Tình trạng | Bịtàu khu trụcAnhHMS Milne đánh chìm trongbiển Bắc Cực,31 tháng 5,1944[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 53 080 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-289 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ thực hiện được hai chuyến tuần tra mà không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại vùngbiển Bắc Cực,U-289 bịtàu khu trụcHMS Milne củaHải quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu đánh chìm về phía Đông Bắc đảoJan Mayen,Na Uy vào ngày31 tháng 5,1944.[1]

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnAEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-289 được đặt hàng vào ngày5 tháng 6,1941,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBremer-Vulkan-Vegesacker Werft ởBremen vào ngày12 tháng 9,1942.[2] Nó được hạ thủy vào ngày25 tháng 5,1943,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày10 tháng 7,1943[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Alexander Hellwig.[2]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-289 được điều sangChi hạm đội U-boat 3 từ ngày1 tháng 4,1944, rồi lại điều sangChi hạm đội U-boat 13 từ đầutháng 5,1944.[2]
U-289 chuyển căn cứ hoạt động từKiel đến cảngBergen,Na Uy vào đầutháng 4,1945, rồi xuất phát từ cảng này vào ngày19 tháng 4 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, để hoạt động trong khu vựcbiển Na Uy. Vào ngày25 tháng 4, nó đã cho đổ bộ hai đặc vụ tình báo lênIceland. Chiếc tàu ngầm kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngNarvik, Na Uy vào ngày6 tháng 5.[6]
Xuất phát từ cảng Narvik vào ngày12 tháng 5 cho chuyến tuần tra thứ hai, cũng là chuyến cuối cùng,U-289 tiếp tục hoạt động trong khu vực biển Na Uy.[7] Vào ngày31 tháng 5, nó bịtàu khu trụcHMS Milne củaHải quân Hoàng gia Anh thảmìn sâu đánh chìm về phía Đông Bắc đảoJan Mayen,Na Uy, tại tọa độ73°32′B0°28′Đ / 73,533°B 0,467°Đ /73.533; 0.467.[1][2] Toàn bộ 51 thành viên thủy thủ đoàn củaU-289 đều tử trận.[2]