Tàu ngầmU-288 bị tấn công bằng súng máy từ một máy bay Avenger, ngày 3 tháng 4, 1944 | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-288 |
| Đặt hàng | 5 tháng 6,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft,Bremen |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 53 |
| Đặt lườn | 7 tháng 9,1942 |
| Hạ thủy | 15 tháng 5,1942 |
| Nhập biên chế | 26 tháng 6,1943 |
| Tình trạng | Bị máy bay từ cáctàu sân bay hộ tống AnhHMS Activity vàHMS Tracker đánh chìm trongbiển Barents,3 tháng 4,1944[1] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 44 937 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-288 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ thực hiện được hai chuyến tuần tra mà không đánh chìm được mục tiêu nào. Trong chuyến tuần tra cuối cùng tại vùngbiển Bắc Cực,U-288 bị máy bayHải quân Hoàng gia Anh xuất phát từ cáctàu sân bay hộ tống AnhHMS Activity vàHMS Tracker đánh chìm trongbiển Barents vào ngày3 tháng 4,1944.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnAEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-288 được đặt hàng vào ngày5 tháng 6,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBremer-Vulkan-Vegesacker Werft ởBremen vào ngày7 tháng 9,1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày15 tháng 5,1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày26 tháng 6,1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Willy Meyer.[1]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-288 được điều sangChi hạm đội U-boat 13 từ ngày1 tháng 2,1944.[1]
U-286 khởi hành từ cảngKiel vào ngày26 tháng 2 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh, và băng quaBắc Hải để hoạt động dọc theo bờ biểnNa Uy. Nó đã không đánh chìm được mục tiêu nào, nên kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngNarvik, Na Uy vào ngày11 tháng 3.[5]
Xuất phát từ cảng Narvik vào ngày23 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ hai, cũng là chuyến cuối cùng,U-288 hoạt động xa hơn về phía Bắc đến các vùngbiển Bắc Cực vàBarents.[6] Vào ngày3 tháng 4, nó tấn công Đoàn tàu JW 58, nhưng bị phản công bởi một máy bayFairey Swordfish xuất phát từtàu sân bay hộ tốngAnhHMS Activity, cùng một chiếcTBM Avenger và một chiếcGrumman Martlet từ tàu sân bayHMS Tracker. Hỏa lựcsúng máy kết hợp vớirocket vàmìn sâu đã đánh chìmU-288 trong biển Barents về phía Đôngđảo Bear, tại tọa độ73°44′B27°12′Đ / 73,733°B 27,2°Đ /73.733; 27.200.[1] Toàn bộ 49 thành viên thủy thủ đoàn củaU-288 đều tử trận.[1]
U-288 từng tham gia bốnbầy sói: