Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-281 |
| Đặt hàng | 5 tháng 6,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft,Bremen |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 46 |
| Đặt lườn | 7 tháng 5,1942 |
| Hạ thủy | 16 tháng 1,1943 |
| Nhập biên chế | 27 tháng 2,1943 |
| Tình trạng |
|
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 50 190 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-281 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó đã thực hiện được bốn chuyến tuần tra nhưng không đánh chìm được mục tiêu nào.U-281 đã sống sót qua cuộc xung đột, đầu hànglực lượng Đồng Minh tạiKristiansand,Na Uy vào ngày9 tháng 5,1945, và bị đánh đắm ngoài khơiLondonderry trong khuôn khổChiến dịch Deadlight vào ngày30 tháng 11,1945.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnAEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-281 được đặt hàng vào ngày5 tháng 6,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBremer-Vulkan-Vegesacker Werft ởBremen vào ngày7 tháng 5,1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày16 tháng 1,1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày27 tháng 2,1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Heinz von Davidson.[1]
Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-281 được điều sangChi hạm đội U-boat 7 từ ngày1 tháng 8,1943 để phục vụ trên tuyến đầu.[1]
Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từKiel đến cảngBergen,Na Uy vào giữatháng 9,U-281 khởi hành từ cảng này vào ngày6 tháng 10 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh. Nó băng quakhe GIUK giữa quần đảoFaroe vàIceland để hoạt động tại khu vực giữaBắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[5] Vào ngày17 tháng 10, trong khi theo dõi Đoàn tàu ONS 20 ở vị trí về phía Đông Nammũi Farewell, Greenland, nó bị mộtmáy bay ném bomB-24 Liberator tấn công. Chiếc tàu ngầm đã chống trả bằng hỏa lực phòng không, và hai quảmìn sâu ném xuống đã chệch khỏi con tàu; tuy nhiên một sĩ quan và hai thủy thủ đã bị thương do hỏa lực súng máy càn quét.[1]U-281 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảngSt. Nazaire bên bờ biểnĐại Tây Dương củaPháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày26 tháng 11.[3]
Trong chuyến tuần tra thứ hai diễn ra từ ngày5 tháng 1 đến ngày5 tháng 3,1944, xuất phát và kết thúc tại cảng St. Nazaire,U-281 hoạt động tại khu vực giữa Bắc Đại Tây Dương về phía Tây NamIreland.[6] Chiếc tàu ngầm có chuyến tuần tra tiếp theo từ ngày6 đến ngày15 tháng 6, cùng xuất phát và kết thúc tại cảng St. Nazaire, nhưng chỉ hoạt động trong khu vựcvịnh Biscay.[7]U-281 đã không đánh chìm được mục tiêu nào trong cả hai chuyến này.
Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ St. Nazaire đến cảngLa Pallice tạiLa Rochelle, Pháp vào đầutháng 8,U-281 xuất phát từ La Pallice vào ngày4 tháng 9, băng ngược trở lại qua khe GIUK để quay lại vùng biển Na Uy, và đi đếnKristiansand vào ngày29 tháng 10.[8] Con tàu lại rời vùng biển Na Uy vào ngày2 tháng 11 để đi đếnFlensburg, Đức ba ngày sau đó.[3] Vào khoảng thời gian này, chiếc tàu ngầm được nâng cấp trang bịống hơi để cải thiện khả năng hoạt động ngầm dưới nước.[1]
Sau khi Đức Quốc xãchấp nhận đầu hàng,U-281 chính thức đầu hànglực lượng Đồng Minh tại Kristiansand vào ngày9 tháng 5,1945.[1] Chiếc tàu ngầm được chuyển đếnLoch Ryan,Scotland ngang quaScapa Flow.[9][1] Sau đó trong khuôn khổChiến dịch Deadlight,U-281 bị đánh đắm ngoài khơiLondonderry vào ngày30 tháng 11,1945, tại tọa độ55°50′B10°05′T / 55,833°B 10,083°T /55.833; -10.083.[1]
U-281 từng tham gia mười mộtbầy sói: