Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-279 |
| Đặt hàng | 10 tháng 4,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Vegesacker Werft,Bremen |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 44 |
| Đặt lườn | 31 tháng 3,1942 |
| Hạ thủy | 16 tháng 12,1942 |
| Nhập biên chế | 3 tháng 2,1943 |
| Tình trạng | Bị máy bay tuần traHải quân Hoa Kỳ đánh chìm trongĐại Tây Dương,4 tháng 10,1943[1][2] |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[3] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[3] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[2][4] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 49 699 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: | 1 chuyến tuần tra: 4 tháng 9 – 4 tháng 10, 1943 |
| Chiến thắng: | Không |
U-279 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ kịp thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất mà chưa đánh chìm được mục tiêu nào, trước khi bị một máy bay tuần traLockheed Ventura củaHải quân Hoa Kỳ đánh chìm trongĐại Tây Dương vào ngày4 tháng 10,1943.[1]

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[5] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[5]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnAEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[5]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[5]
U-279 được đặt hàng vào ngày10 tháng 4,1941,[2] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngBremer-Vulkan-Vegesacker Werft ởBremen vào ngày31 tháng 3,1942.[2] Nó được hạ thủy vào ngày16 tháng 12,1942,[2] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày3 tháng 2,1943[2] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Đại úy Hải quân Otto Franke.[2]
Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 8,U-279 được điều sangChi hạm đội U-boat 9 từ ngày1 tháng 8,1943 để phục vụ trên tuyến đầu.[2] Nó xuất phát từ cảngKiel vào ngày4 tháng 9 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh, tiến raBắc Hải rồi băng quakhe GIUK giữa quần đảoFaroe vàIceland để hoạt động trongBắc Đại Tây Dương về phía Đông NamGreenland.[6] Chiếc tàu ngầm đã cho đổ bộ một đặc vụ lên Iceland vào ngày20 tháng 9.[2]
Đến ngày4 tháng 10, nó bị một máy bay tuần traLockheed Ventura thuộc Liên đội VB-128Hải quân Hoa Kỳ thảmìn sâu tấn công, và bị đánh chìm về phía Tây Nam Iceland tại tọa độ60°40′B26°30′T / 60,667°B 26,5°T /60.667; -26.500.[2][1] Một số thủy thủ củaU-279 còn sống sót trên bè cứu sinh và trên mặt nước vào lúc chiếc tàu ngầm đắm, nhưng chiếc Ventura bị hỏng máy vô tuyến nên không thể kêu gọi sự cứu giúp. Vì vậy toàn bộ 48 thành viên thủy thủ đoàn củaU-279 đều tử trận.[2][7]
U-279 từng tham giabầy sói: