Tàu ngầm U-boat Type VIIC | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-236 |
| Đặt hàng | 20 tháng 1,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Germaniawerft,Kiel |
| Kinh phí | 4.439.000Reichsmark |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 666 |
| Đặt lườn | 23 tháng 3,1942 |
| Hạ thủy | 24 tháng 11,1942 |
| Nhập biên chế | 9 tháng 1,1943 |
| Tình trạng | |
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Hệ thống cảm biến và xử lý | Gruppenhorchgerät |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 49 652 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: | Không |
| Chiến thắng: | Không |
U-236 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ thuần túy đảm nhiệm vai trò huấn luyện tại khu vựcbiển Baltic. Con tàu từng bị đánh chìm trong một cuộc không kích xuống cảngKiel vàotháng 5,1943, nhưng được cho nổi trở lại và sửa chữa để tiếp tục hoạt động. Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc, để tránh bị lọt vào taylực lượng Đồng Minh,U-236 bị đánh chìm trong khuôn khổChiến dịch Regenbogen tạiKappeln vào ngày5 tháng 5,1945.

Phân lớp VIIC củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng cótrọng lượng choán nước 769 t (757tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[3] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[3]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnAEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[3]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng mộtpháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[3]
U-236 được đặt hàng vào ngày20 tháng 1,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãngFriedrich Krupp Germaniawerft tạiKiel vào ngày23 tháng 3,1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày24 tháng 11,1942,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày9 tháng 1,1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Reimar Ziesmer.[1]
Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 5,U-236 chỉ thuần túy phục vụ như một tàu huấn luyện, lần lượt trong thành phầnChi hạm đội U-boat 24 từ ngày29 tháng 9,1943,Chi hạm đội U-boat 31 từ ngày1 tháng 5,1944 vàChi hạm đội U-boat 34 từ ngày1 tháng 3,1945.[1]
U-236 bị đánh chìm tại cảng Kiel vào ngày14 tháng 5,1943 trong một cuộc không kích của Không lực 8Không lực Lục quân Hoa Kỳ, nhưng không có tổn thất nhân mạng. Chiếc tàu ngầm được cho nổi trở lại vào ngày22 tháng 5 và được sửa chữa rồi tiếp tục phục vụ trở lại từ ngày29 tháng 9.[1] Khi cuộc xung đột bước vào giai đoạn kết thúc, để tránh bị lọt vào taylực lượng Đồng Minh,U-236 bị đánh chìm trong khuôn khổChiến dịch Regenbogen tại Schleimünde gầnKappeln, tại tọa độ54°37′B10°03′Đ / 54,617°B 10,05°Đ /54.617; 10.050 vào ngày5 tháng 5,1945.[1]