U-995, một chiếc Type VIIC/41 tiêu biểu, hiện làtàu bảo tàng tạiLaboe, Đức | |
| Lịch sử | |
|---|---|
| Tên gọi | U-1000 |
| Đặt hàng | 14 tháng 10,1941 |
| Xưởng đóng tàu | Blohm & Voss,Hamburg |
| Số hiệu xưởng đóng tàu | 200 |
| Đặt lườn | 18 tháng 12,1942 |
| Hạ thủy | 17 tháng 9,1943 |
| Nhập biên chế | 4 tháng 11,1943 |
| Xuất biên chế | 29 tháng 9,1944 |
| Tình trạng |
|
| Đặc điểm khái quát | |
| Lớp tàu | Tàu ngầmType VIIC/41 |
| Trọng tải choán nước | |
| Chiều dài | |
| Sườn ngang | |
| Chiều cao | 9,60 m (31 ft 6 in)[2] |
| Mớn nước | 4,74 m (15 ft 7 in)[2] |
| Công suất lắp đặt | |
| Động cơ đẩy |
|
| Tốc độ |
|
| Tầm xa | |
| Độ sâu thử nghiệm |
|
| Thủy thủ đoàn tối đa | 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ |
| Vũ khí |
|
| Thành tích phục vụ[1][3] | |
| Một phần của: |
|
| Mã nhận diện: | M 52 805 |
| Chỉ huy: |
|
| Chiến dịch: |
|
| Chiến thắng: | Không |
U-1000 là mộttàu ngầm tấn côngLớpType VII thuộc phân lớpType VIIC/41 đượcHải quânĐức Quốc Xã chế tạo trongChiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm1943, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và không đánh chìm được mục tiêu nào.U-1000 bị hư hại nặng do trúngthủy lôi do phía Anh rải ngoài khơiPillau,Königsberg vào ngày31 tháng 8,1944, nên được cho xuất biên chế và tháo dỡ làm nguồn phụ tùng. Xác tàu bị đánh đắm vàotháng 3,1945, và được trục vớt và loại bỏ sau chiến tranh.

Phân lớp VIIC/41 củaTàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIC được cải tiến nhẹ có trọng ượng chung nhẹ hơn. Chúng cótrọng lượng choán nước 759 t (747tấn Anh) khi nổi và 860 t (850 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]
Chúng trang bị haiđộng cơ dieselGermaniawerft F46siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng haiđộng cơ/máy phát điệnGarbe, Lahmeyer & Co. RP 137/c tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Với lườn áp lực chắn chắn hơn, phân lớp VIIC/41 có khả năng lặn sâu đến 250 m (820 ft).[4]
Vũ khí trang bị có nămống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quảngư lôi, hoặc tối đa 22 quảthủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí mộthải pháo 8,8 cm SK C/35, một pháo phòng không3,7 cm (1,5 in) Flak M42 cùng hai pháo phòng không2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]
U-1000 được đặt hàng vào ngày14 tháng 10,1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàuBlohm & Voss ởHamburg vào ngày18 tháng 12,1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày17 tháng 9,1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày4 tháng 11,1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng,Trung úy Hải quân Willi Müller.[1]
Sau khi hoàn tất việc huấn luyện trong thành phầnChi hạm đội U-boat 31,U-1000 được điều sangChi hạm đội U-boat 8 từ ngày1 tháng 8,1944 để hoạt động trên tuyến đầu cho đến khi xuất biên chế.[1]
Vào giữatháng 5,1944,U-1000 di chuyển từ cảngKiel, Đức đến cảngEgersund,Na Uy,[3] rồi xuất phát từ đây vào ngày4 tháng 6 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh. Nó đã hoạt động trong khu vựcBắc Hải vàbiển Na Uy trước khi kết thúc chuyến tuần tra tại cảngBergen, Na Uy vào ngày19 tháng 6.[5] Cho dù không đánh chìm được mục tiêu nào, vào ngày18 tháng 6, ở vị trí khoảng 50 nmi (93 km) về phía Tây Bergen, chiếc U-boat đã cứu vớt hai thành viênngười Na Uy thuộc đội bay mộtmáy bay ném bomDe Havilland Mosquito thuộc Liên đội 333Không quân Hoàng gia Anh, vốn đã bị hỏa lực phòng không từ tàu ngầmU-804 bắn rơi hai ngày trước đó.[5]
Sau đó chiếc tàu ngầm di chuyển ngang qua Arnøya để đến Arendal cùng thuộc Na Uy.[3] Đến ngày9 tháng 8,U-1000 được phái sang hoạt động tại khu vựcbiển Baltic nhằm đối phó với hoạt động củaHồng quânLiên xô, vào lúc này đã phản công trên đất liền. Chiếc U-boat đã lần lượt di chuyển đến Kiel,Gotenhafen (nay làGdynia thuộcBa Lan),Königsberg (nay làKaliningrad thuộcLiên bang Nga), vàPillau (nay làBaltiysk).[3] Tuy nhiên trên đường di chuyển từ Pillau đếnReval (nay làTallinn thuộcEstonia),U-1000 trúngthủy lôi do máy bayKhông quân Hoàng gia Anh rải ở vị trí ngoài khơi Pillau vào ngày31 tháng 8,1944.[1]
Bị hư hại nặng, nó vẫn cố lết trở lại cảng Pillau. Toàn bộ thủy thủ đoàn đều sống sót và được chuyển sang tàu ngầmU-3523, nhưng tất cả đã tử trận khiU-3523 bị đánh chìm vàotháng 5,1945.U-1000 bị bỏ không tại Pillau khi không thể sửa chữa, và trở thành một tổn thất toàn bộ, nên cuối cùng được cho xuất biên chế vào ngày29 tháng 9,1944, và tháo dỡ làm nguồn phụ tùng. Xác tàu bị đánh đắm gần Pillau vàotháng 3,1945, và được trục vớt và loại bỏ sau chiến tranh.[1]