Tsongkhapa བཙོང་ཁ་པ་ | |
---|---|
![]() | |
Hoạt động tôn giáo | |
Tôn giáo | Phật giáo |
Trường phái | Phật giáo Tây Tạng |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1357 |
Nơi sinh | Amdo,Tây Tạng |
Mất | |
Ngày mất | 1419 |
Nơi mất | Ganden Monastery |
Giới tính | nam |
Thân quyến | |
Lubum Ge | |
Nghề nghiệp | nhà triết học,nhà văn |
![]() | |
[sửa trên Wikidata]x • t • s |
Tsongkhapa (chữ Tây Tạng: བཙོང་ཁ་པ་,btsong kha pa, chữ Hán: 宗喀巴, Hán-Việt: Tông-khách-ba,1357-1419) sinh tại Amdo[1], Đông Bắc Tây Tạng trong một gia đình quan lại quyền thế đồng thời cũng là một gia đình Phật giáo. Sư là một vịLạt-ma Tây Tạng, nhà cải cách lừng danh củaPhật giáo tại đây. Sư sáng lập tông pháiCách-lỗ (bo.gelugpa དགེ་ལུགས་པ་), với một trong những giáo phái quan trọng nhất củaPhật giáo Tây Tạng. Sư là người xây dựng nhiều tháp quan trọng tại Tây Tạng nhưDrepung (Triết Bang),Sera (Sắc Nhạ) vàGanden (Cách Đăng).
Lúc còn nhỏ, Sư đã đi vào con đường tu học. Năm ba tuổi, Sư thụ giới Cư sĩ với Đức Karmapa thứ 4, Rolpe Dorje (bo.rol pa'i rdo rje རོལ་པའི་རྡོ་རྗེ་,1340-1383). Sư học với nhiều vị đạo sư khác nhau và nghe nhiều khai thị của hai tông pháiTát-ca vàCam-đan. Khả năng luận giảng xuất sắc của Tsongkhapa biểu lộ trong 18 tác phẩm và các tác phẩm này đã trở thành kinh sách giáo khoa cho các thế hệ sau. Nổi tiếng nhất trong các tác phẩm này là "Đại Luận về con đường giác ngộ" và "Luận về trình tự của mật chú". Sư cho rằng, mộttỉ-khâu cần phải nghiên cứu năm ngành học và muốn thế, vị này cần biết lắng nghe các lời khai thị, biết tự mình suy xét phân biệt và biết thực hiện chúng thông qua thiền định. Trong năm ngành đó thì về triết học, Sư khuyên họcTrung quán và ngànhNhân minh (sa.hetuvidyā, tức logic học), về thiền định nên nghiên cứu giáo pháp của kinhBát-nhã-ba-la-mật-đa vàA-tì-đạt-ma (sa.abhidharma), về một đời sống chân chính nên dựa vàoLuật tạng.
Ngoài các đóng góp trên, Sư còn hoàn tất bốn công trình lớn được kể là: tu chỉnh một bức tượng quan trọng củaDi-lặc, kiên trì giữ giới luật ghi trong Luật tạng, thành lập lễ nguyên đán Mon-lam và xây nhiều bảo tháp.
Sau khi tu học và bắt đầu thu nhận đệ tử vào năm 29 tuổi, ngài bắt đầu đổi sang đội mũ màu vàng. Các đệ tử của sư sau đó cũng đều học theo ông đội mũ vàng, nhờ vậy bắt đầu hình thành Hoàng Mạo phái (phái mũ vàng). Mũ vàng vốn ban đầu là mũ dành riêng cho những đại sư có nhiệm vụ duy trì giới luật.
{{Chú thích web}}
:Chú thích có tham số trống không rõ:|url hỏng=
(trợ giúp)![]() | Bài viết các tu sĩ, danh tăng, nhân vật lịch sửPhật giáo này vẫn cònsơ khai. Bạn có thể giúp Wikipediamở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. |
Bảng các chữ viết tắt |
---|
bo.: Bod skad བོད་སྐད་,tiếng Tây Tạng |ja.: 日本語tiếng Nhật |ko.: 한국어,tiếng Triều Tiên | pi.: Pāli,tiếng Pali |sa.: Sanskrit संस्कृतम्,tiếng Phạn |zh.: 中文chữ Hán |