Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Trung Á

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trung Á
Map of Central Asia
Diện tích4,003,451km²
Các thành phố lớnAlmaty
Astana
Tashkent
Bishkek
Ashgabat
Dushanbe
Dân số69,787,760 người
Các quốc gia Kazakhstan
 Kyrgyzstan
 Tajikistan
 Turkmenistan
 Uzbekistan
GDP danh nghĩa$295.331 billion (2012)
GDP bình quân đầu người$6,044 (2012)
DemonymCentral Asia
Ngôn ngữTiếng Kazakh,Tiếng Uzbek,Tiếng Tajik,Tiếng Turkmen,Tiếng Kyrgyz,Tiếng Nga

Trung Á là một vùng củachâu Á không tiếp giáp vớiđại dương. Có nhiều định nghĩa về Trung Á, nhưng không có định nghĩa nào được chấp nhận rộng rãi. Các tính chất chung của vùng đất này có thể kể ra như: vùng này trong lịch sử cóCon đường Tơ lụa và có những người dându mục, bao gồm cảMông Cổ. Nơi đây từng là điểm trung chuyển hàng hóa giữaĐông Á,Nam Á,Trung Đôngchâu Âu. Đôi khi người ta còn gọi nó là vùngNội Á.

Diễn biến khái niệm

[sửa |sửa mã nguồn]

Phân định Trung Á

[sửa |sửa mã nguồn]

Khái niệm Trung Á có sớm nhất do nhà địa lí họcngười ĐứcAlexander von Humboldt đề xuất vào năm 1843.Humboldt cho biết phạm vi địa lí của Trung Á, phía tây bắt đầu từBiển Caspi, phía đông đến Hưng An Lĩnh, phía nam từdãy núi Himalaya, phía bắc đếndãy núi Altai.[1]

Các học giảLiên Xô cũ cho biết cụm từ "Trung Á" chuyên chỉ khu vực có sự hiện diện củanăm nước cộng hoà gia nhập Liên Xô ở Trung Á gồm:Kazakhstan,Uzbekistan,Kyrgyzstan,TajikistanTurkmenistan.[1] Đây cũng là định nghĩa chính thức củaLiên Xô, vào thời kìLiên Xô, sự phân định này trên thực tế cũng sử dụng rộng khắp. Tuy nhiên, trongvăn hoá Nga, có hai khái niệm liên quan đến Trung Á: một làСредняя Азия (tiếng Anh có thể dịch thànhMiddle Asia), là khái niệm tương đối hẹp, chỉ khu vực cư trú của người phi Slav nằm ở trung bộchâu Á doNga thống trị; một cái khác làЦентральная Азия (tiếng Anh có thể dịch thànhCentral Asia), phạm vi khá rộng, chỉ khu vực trung bộchâu Á mà bất luận những khu vực này có từng bịNga thống trị hay không. Khái niệm thứ hai bao gồmAfghanistanĐông Turkestan.[2]

Sau khiLiên Xô tan rã, các nhà lãnh đạo củaKyrgyzstan,Uzbekistan,TajikistanTurkmenistan - bốn nước độc lập từ Liên Xô cũ, cử hành hội nghị tạiTashkent, tuyên bố khu vực Trung Á cần phải bao gồmKazakhstan ở trong đó. Kể từ đó, năm nước Trung Á đã trở thành khái niệm của Trung Á được tiếp nhận phổ biến nhất, cụ thể bao gồmTurkmenistan,Uzbekistan,Kyrgyzstan,TajikistanKazakhstan.[3]

Theo định nghĩa được nêu ra bởiUNESCO căn cứ vàokhí hậuphong tục trước khiLiên Xô tan rã không lâu, khái niệm Trung Á còn rộng hơn rất nhiều. Nó bao gồmMông Cổ,Tây Tạng,Tân Cương và phía tâyNội Mông củaTrung Quốc,tỉnh Golestan, Bắc Khorasan vàRazavi Khorasan củaIran,Afghanistan,tỉnh Khyber PakhtunkhwaPunjab củaPakistan, bộ phậnKashmir doPakistan kiểm soát (bao gồmGilgit-BaltistanAzad Kashmir),bang Punjab củaẤn Độ, bộ phậnKashmir doẤn Độ kiểm soát (bao gồmLadakhJammu và Kashmir), khu vực có phân bốrừng taiga ở phía nam miền trung đông nước Nga, cùng với năm quốc gia -stan độc lập từLiên Xô cũ.[4]

Một phương pháp phân định linh hoạt khác là căn cứ vào sắc tộc mà phân chia, tức là khu vực có người Turk và người Đông Iran cư trú. Những khu vực này bao gồmTân Cương, khu vực sinh sống củacác sắc tộc Turk ở miền namTây Siberia và năm quốc gia -stan độc lập từLiên Xô cũ. Ngoài ra còn bao gồmAfghanistan, phía bắc Pakistan,lũng núiKashmir,Tây TạngLadakh. Trong khái niệm này, tuyệt đại bộ phận cư dân sống ở khu vực nói trên đều là cư dân bản địa. Trung Á có lúc được gọi làTurkestan.[5][6][7]

Có một số nơi tuyên bố nằm ở vị trí trung tâm củachâu Á về phương diện địa lí, ví dụ nhưthủ phủ Kyzyl củaCộng hoà Tuva, và làng Vĩnh Tân cáchthủ phủ Ürümqi củaTân Cương 320 km về phía bắc.[8]

Một nghiên cứu hợp tác quốc tế của các học giả đến từ bốn châu lục cho thấy, khu vực Trung Á là tuyến đường then chốt của một số cuộc thiên di sớm nhất mà người cổ đại vượt qua châu Á. Khu vựcthảo nguyên, bán khô hạn vàsa mạc từng cung cấp môi trường thuận lợi cho người cổ đại và quá trình thiên di của họ hướng vềlục địa Á-Âu.[9]

Vị trí và đặc trưng địa lí tự nhiên

[sửa |sửa mã nguồn]
Vị tríNằm ở trung bộlục địa Á - Âu, cáchbiểnđại dương khá xa.
Dòng sôngPhần lớn là sông nội lưu (sông Amu,sông Syr,...), sông ngoại lưu cósông Irtysh.
Hồ chằmPhần lớn làhồ nội lưu, phía tây tiếp giáphồ nội lưu lớn nhất thế giới -Biển Caspi, trung bộ cóBiển Aral,hồ Balkhash, hồ Alakol,hồ Issyk.
Địa hìnhĐịa thế phía đông cao phía tây thấp, địa hình chủ yếu làđồng bằng và gò đồi.
Khí hậuPhần lớn làkhí hậu lục địaôn đới, đông lạnh hè nóng,giáng thuỷ ít và hiếm, biên độ nhiệt theo năm và biên độ nhiệt theo ngày lớn.
Thảm thực vậtChủ yếu làthảo nguyênhoang mạc.

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Lịch sử Trung Á

Mặc dù bước vào thời kì hoàng kim của chủ nghĩa phương Đông, địa vị của Trung Á tronglịch sử thế giới bị gạt ra ngoài lề, nhưng lịch sử đương đại đã phát hiện lại "địa vị trung tâm" của Trung Á.[10] Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng lịch sử Trung Á làđịa líkhí hậu. Vì nguyên do khô hạn nên khu vực Trung Á không thuận lợi cho phát triểnnông nghiệptrồng trọt, chỉ có thể dựa vàothuỷ lợi mà thuận lợi phát triển nông nghiệptưới tiêu; hơn nữa do cách xabiểnđại dương nên đã ngăn cản lưu thông mậu dịch. Do đó, nhân khẩu tại khu vực Trung Á phân bố không đồng đều, được kiểm soát bởi sự cộng tồn giữa dân tộc nông canh và dân tộcdu mục trong hàng nghìn năm qua.

Dân tộc du mục ở Trung Á xung đột liên tục không ngừng với dân tộc nông canh ở chung quanh trong một khoảng thời gian dài. Phương thức sinh hoạt của dân tộc du mục hiển nhiên thích hợp hơn vớichiến tranh, cáckị binhthảo nguyên lúc bấy giờ có thể nói là đơn vị quân sự lớn mạnh nhất trên thế giới, nhưng sức chiến đấu của họ thường thường bị yếu tố chia rẽ nội bộ ngăn cản.Con đường tơ lụa xuyên qua Trung Á thường sẽ thúc đẩy sự thống nhất nội tại của dân tộc du mục, từ đó sản sinh những lãnh tụ vĩ đại mang tính chu kì, để lãnh đạo thống nhất tất cảbộ lạc, hình thành một toán lực lượng hùng mạnh gần như không thể ngăn cản. Điều này đã xảy ra, chẳng hạn nhưngười Hung cướp bócchâu Âu,Ngũ Hồ loạn Hoađế quốc Mông Cổ hầu như chinh phục cảlục địa Á - Âu.[11]

Vào năm 750,tiết độ sứ An Tây củanhà ĐườngCao Tiên Chi tiêu diệt Thạch quốc, khiến chonhà Đường mở rộng thế lực ở Trung Á thậm chí đến khu vựcAfghanistan. Sách "Lí luận về thế giới lưỡng cực" cho biết, giai đoạn từ sự hình thành củađế quốc Hung Nô vào năm300 TCN cho đến sự diệt vongĐột Quyết vào năm 745, hình thái xã hội Trung Á đã thực hiện cải cách từchế độ nông nô nửa phong kiến nửa bộ lạc sangchế độ nông nôphong kiến.

Vào thời kì tiền Hồi giáo hoá và thời kì đầu Hồi giáo hoá, dân tộc cư trú chủ yếu ở phía nam Trung Á nói các thứ tiếng thuộcngữ chi Iran.[12][13] Trong số các dân tộc định cư ởIran vào thời cổ đại này,người Sogdia và người Khwarazm đóng vai trò trọng yếu; tuy nhiên,người Scythia cùng với người Massagetae và người Alan nổi dậy sau này đã chuyển qua cuộc sống bán du mục. Đến thế kỉ V,người Turk bắt đầu từ phía bắc Trung Á đi đến phía namthảo nguyên, tiến vào khu vực canh nông ở phía nam, kiểu thiên di này một mạch liên tục đến thế kỉ X. Vào thế kỉ IX, vương triều Samanid dongười Ba Tư thiết lập thống trị phần lớn Trung Á, đã thúc đẩy sự định cư hoá và Hồi giáo hoá củangười Turk. Từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIII,người Turk từng bước lớn mạnh, hầu như cả Trung Á đều trở thành lãnh thổ củavương triều Kara-Khanid, vương triều Ghaznavid vàvương triều Seljuk dongười Turk thiết lập, Trung Á đã mở đầu tiến trìnhTurk hoá. Sau đó,người Mông Cổ xâm nhập, phần lớn Trung Á đặt dưới sự kiểm soát củaHãn quốc Sát Hợp Đài. Giữa thế kỉ XIV, nhà quý tộc người TurkThiếp Mộc Nhi lấySamarkand ở Trung Á làm trung tâm, thiết lậpđế quốc Timurid, đồng thời chinh phục bành trướng khắp chung quanh, lần lượt đánh bạiHãn quốc Kim Trướng,Sultan quốc Delhi,vương triều Mamlukđế quốc Ottoman. Vào thế kỉ XV, dưới sự thống trị củavương triều Timurid, văn hoá và nghệ thuật Trung Á từng một lần phồn vinh. Sau này,người Uzbek ở phía bắcsông Syr đi đến phía nam, thiết lập lênHãn quốc Bukhara, lật đổ sự thống trị củavương triều Timurid.

Đến cuối thế kỉ XVII, ưu thế của dân tộc du mục và dân tộc bán du mục tại Trung Á đã chấm dứt, sự phát triển quy mô lớn củavũ khí và sự cải tiếncông nghệ quân sự khiến cho dân tộc định cư đã giành lấy quyền chi phối. Ba Tư,Sa Nga,nhà Thanh và các đế quốc hùng mạnh khác từng bước bành trướng, thế kỉ XVIII, phần lớn Trung Á trở thành phạm vi thế lực của Ba Tư, về sau cóSa Nga "hậu sinh khả uý", thông quaChiến tranh Nga-Ba Tư lần thứ nhấtChiến tranh Nga–Ba Tư lần thứ hai đã đánh bạiQajar Iran, đến cuối thế kỉ XIX,Sa Nga đã chiếm đóng phần lớn lãnh thổ Trung Á.Mông Cổ độc lập và dựng nước vào năm 1911, nhưng lại trở thànhnước vệ tinh củaLiên Xô.Afghanistan là một quốc gia chịu sự ảnh hưởng củaLiên Xô sâu sắc, đồng thời bịquân Liên Xôxâm lược vào năm 1979.

Khu vực Trung Á doLiên Xô kiểm soát đã khai triển tiến trìnhcông nghiệp hoáđô thị hoá, nhưng đồng thời cũng đi kèm đàn áp văn hoá địa phương, và để lại vấn đề môi trường. Hàng trăm nghìn cư dân Trung Á bỏ mạng trong phong tràotập thể hoá nông nghiệp, do đó đã hình thành căng thẳng quan hệ giữa các sắc tộc trong khoảng thời gian dài. Ngoài ra, chính sách của Liên Xô về sắp đặt chỗ ở dành cho các sắc tộc đã đem hàng triệu người di dời vàoTây Siberia và Trung Á, có lúc thậm chí là sự thiên di của cả dân tộc.[14][15] Theo sáchCentral Asia and the Caucasus: Transnationalism and Diaspora do Touraj Atabaki và Sanjyot Mehendale xuất bản vào năm 2004, khoảng thời gian từ năm 1959 đến năm 1970, có hai triệu người đến từ các nơi Liên Xô bị chuyển vào Trung Á, trong đó một triệu người đi vàoKazakhstan.[16]

Sau khiLiên Xô tan rã, năm nước Trung Á giành được độc lập. Tuy nhiên, thời kì đầu sau khi độc lập, các quan chức xuất thân từđảng Cộng sản Liên Xô vẫn nắm giữ quyền lực như cũ, bất kì một quốc gia nào trong chúng đều khó có đủ tư cách là mộtquốc gia dân tộc. Tuy ởKyrgyzstanKazakhstanMông Cổ, chính phủ đã chọn lấy một số chính sách khai sáng, nhưng ởUzbekistan,TajikistanTurkmenistan, chính phủ vẫn duy trì thể chế Xô-viết như xưa.[17]

Dân cư

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Nhân khẩu Trung Á
Bản đồ sắc tộc tại Trung Á.
White areas are thinly-populated semi-desert.
Các khu vực màu trắng là vùng thưa dân cư hay vùng thảo nguyên. Ba dòng hướng tây bắc là sông Oxus và sông Jaxartes chảy từ vùng núi phía đông vào biển Aral và ở phía nam là sườn bắc được tưới tiêu của dãy núi Kopet Dagh.
Thanh niênNgười Uzbek tạiSamarkand,Uzbekistan
Người Kyrgyz tạiNaryn,Kyrgyzstan
Người Uzbek tạiOsh,Kyrgyzstan

Theo định nghĩa rộng bao gồm cảMông CổAfghanistan, hơn 75 triệu người sống ở Trung Á, chiếm khoảng 1,5% tổng dân sốchâu Á. Trong số các khu vực củaChâu Á, chỉBắc Á có ít người hơn. Nó có mật độ dân số 9 người/km, thấp hơn rất nhiều so với 80,5 người/km của toàn lục địa.

Ngôn ngữ

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ của phần lớn cư dân của các nước Cộng hòa Trung Á thuộcLiên Xô cũ thuộcnhóm ngôn ngữ Turkic.Turkmen, chủ yếu được nói ởTurkmenistan, và là ngôn ngữ thiểu số ởAfghanistan,Nga,IranThổ Nhĩ Kỳ.Tiếng KazakhTiếng Kyrgyz là các ngôn ngữ có liên quan của nhómTiếng Karakalpak các ngôn ngữ Turkic và được sử dụng khắpKazakhstan,Kyrgyzstan, và là ngôn ngữ thiểu số ởTajikistan,AfghanistanTân Cương.Tiếng UzbekTiếng Uyghur được nói ởUzbekistan,Tajikistan, Kyrgyzstan,AfghanistanTân Cương.

Ngữ hệ Turk có thể thuộc về một họNgữ hệ Altai lớn hơn, nhưng bao gồmtiếng Mông Cổ. Tiếng Mông Cổ được nói khắpMông CổBuryatia,Kalmykia,Nội MôngTân CươngNgữ hệ Tungus.

Tiếng Nga, cũng như được khoảng sáu triệu ngườiNgười NgaNgười Ukraina ở Trung Á nói,[18] là trên thực tếlingua franca trên khắp các nước Cộng hòa Trung Á thuộc Liên Xô cũ.

Các ngôn ngữ Trung Iran đã từng được sử dụng khắp Trung Á, chẳng hạn nhưTiếng Sogdia,Khwarezmia,BactriaScythia, hiện đã tuyệt chủng và thuộc họĐông Iran. Tiếng Đông Irantiếng Pashto vẫn được nói ởAfghanistan và tây bắcPakistan. Các ngôn ngữ miền Đông Iran phụ khác nhưShughni,Munji,Ishkashim,Sarikoi,Wakhi,YaghnobiOssetia cũng được nói ở nhiều nơi khác nhau ở Trung Á. Nhiều loạiBa Tư cũng được sử dụng như một ngôn ngữ chính trong khu vực, được biết đến ở địa phương làDari (ởAfghanistan),Tajik (ởTajikistanUzbekistan), vàBukhori (bởiNgười Do Thái Bukharan ở Trung Á).

Tiếng Tochari, mộtnhóm ngôn ngữ Ấn-Âu, từng là chủ yếu ở các ốc đảo ở rìa phía bắc củaTarim Basin củaTân Cương, hiện đã tuyệt chủng.

Tiếng Dardic, chẳng hạn nhưShina,Kashmir,PashayiKhowar, cũng được nói ở phương đông Afghanistan,Gilgit-BaltistanKhyber Pakhtunkhwa củaPakistan và lãnh thổ tranh chấp củaKashmir.Tiếng Triều Tiên được nói bởi thiểu sốNgười Koryo-saram, chủ yếu ở Kazakhstan, Kyrgyzstan và Uzbekistan.[19]

Tôn giáo

[sửa |sửa mã nguồn]
Phần nàykhông cónguồn tham khảo nào. Mời bạn giúpcải thiện Phần bằng cáchbổ sung cácnguồn tham khảo đáng tin cậy. Các nội dung không nguồn có thể bị nghi ngờ vàxóa bỏ.Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì bạn có thể chép nguồn tham khảo bên đó sang đây.(November 2016) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)

Hồi giáo là tôn giáo phổ biến nhất ở các nước Trung Á,Afghanistan, Tân Cương và các vùng ngoại vi phía tây, chẳng hạn nhưBashkortostan. Hầu hết người Hồi giáo Trung Á làSunni, mặc dù có một số dân tộc thiểu sốShia khá lớn ởAfghanistanTajikistan.

Phật giáoHoả giáo là những tín ngưỡng chính ở Trung Á trước khi Hồi giáo xuất hiện. Ảnh hưởng của Hoả giáo ngày nay vẫn còn được cảm nhận trong các lễ kỷ niệm nhưNowruz, được tổ chức ở tất cả năm quốc gia Trung Á.[20]

Phật giáo là một tôn giáo nổi bật ở Trung Á trước khi Hồi giáo xuất hiện, và dọc theo con đường tơ lụa cuối cùng đã đưa tôn giáo này đến Trung Quốc.[21] Trong sốNgười Turkic,Tengri giáo là hình thức tôn giáo hàng đầu trước khi Hồi giáo tấn công.[22]Phật giáo Tây Tạng phổ biến nhất ởTây Tạng, Mông Cổ,Ladakh, và các vùng phía nam của Nga ở Siberia.

Hình thứcCơ đốc giáo được thực hành nhiều nhất trong khu vực trong những thế kỷ trước làNestorianism, nhưng hiện nay giáo phái lớn nhất làGiáo hội Chính thống Nga, với nhiều thành viên ở Kazakhstan, nơi có khoảng 25% dân số 19 triệu người theo đạo Thiên chúa, 17% ở Uzbekistan và 5% ở Kyrgyzstan.

Người Do Thái Bukharan đã từng là một cộng đồng lớn ở Uzbekistan và Tajikistan, nhưng gần như tất cả đều đã di cư kể từ khiLiên Xô giải thể.

Ở Siberia, các thực hànhShaman vẫn tồn tại, bao gồm các hình thứcbói toán chẳng hạn nhưKumalak.

Tiếp xúc và di cư vớiHán từ Trung Quốc đã đưaNho giáo,Đạo giáo,Phật giáo Đại thừa, và cáctín ngưỡng dân gian Trung Quốc vào vùng miền, quốc gia.

Dữ liệu thống kê

[sửa |sửa mã nguồn]
Quốc giaDân số (2021)[23]Ngôn ngữTôn giáo[24]Sắc tộc[25]Đơn vị tiền tệ
 Kazakhstan18,780,000Kazakh,Nga, UzbekHồi giáo,Chính thống giáoKazakh,Nga, Uzbek,Uyghur,Tatar,Đức,Ukraina, KhácTenge Kazakhstan
 Kyrgyzstan6,540,000Kyrgyz, Uzbek, NgaHồi giáoKyrgyz, Uzbek, Nga,Dungan, KhácSom Kyrgyzstan
 Tajikistan9,300,000Tajik, Uzbek, NgaHồi giáoTajik, Uzbek, Nga và KhácSomoni Tajikistan
 Turkmenistan5,900,000Turkmen, Nga, Uzbek,AzerbaijanHồi giáoTurkmen, Nga, Uzbek,AzeriManat Turkmenistan
 Uzbekistan33,140,000Uzbek, Tiếng Nga, TajikHồi giáoUzbek, Nga, Kazakh, Tajik,Karakalpak,Tatar.Som Uzbekistan
Tổng cộng73.660.000Tiếng Uzbek, Tiếng Kazakh, Tiếng Tajik, Tiếng Kyrgyz, Tiếng Turkmen, Tiếng NgaHồi giáoNgười Uzbek, Kazakh, Tajik, Kyrgyz, Turkmen, Karakalpak, Nga

Khí hậu

[sửa |sửa mã nguồn]
Bản đồ khí hậu Trung Á theoPhân loại khí hậu Köppen.

Bởi vì Trung Á không được đệm bởi một khối nước lớn nên sự dao động nhiệt độ thường rất nghiêm trọng, ngoại trừ những tháng mùa hè nắng nóng. Ở hầu hết các khu vực, khí hậu khô và lục địa, với mùa hè nóng và mùa đông mát đến lạnh, thỉnh thoảng có tuyết rơi. Bên ngoài các khu vực có độ cao lớn, khí hậu chủ yếu là bán khô hạn đến khô hạn. Ở những nơi có độ cao thấp hơn, mùa hè nóng nực với ánh nắng chói chang. Mùa đông thỉnh thoảng có mưa và hoặc tuyết từ các hệ thống áp suất thấp băng qua khu vực từBiển Địa Trung Hải. Lượng mưa trung bình hàng tháng cực kỳ thấp từ tháng 7 đến tháng 9, tăng vào mùa thu (tháng 10 và tháng 11) và cao nhất vào tháng 3 hoặc tháng 4, sau đó là khô nhanh vào tháng 5 và tháng 6. Gió có thể mạnh, đôi khi tạo ra bão bụi, đặc biệt là vào cuối mùa khô trong tháng 9 và tháng 10. Các thành phố cụ thể tiêu biểu cho các kiểu khí hậu Trung Á bao gồmTashkentSamarkand, Uzbekistan,Ashgabat, Turkmenistan vàDushanbe, Tajikistan, thành phố cuối cùng đại diện cho một trong những vùng khí hậu ẩm ướt nhất ở Trung Á, với lượng mưa trung bình hàng năm 500-600mm (20-24 inch).

Vùng đất của Trung Á làVùng thảo nguyênnúi tuyết.

Về mặt địa lý sinh học, Trung Á là một phần củaPalearctic.Quần xã sinh vật lớn nhất ở Trung Á là quần xã sinh vậtđồng cỏ ôn đớicây bụi. Trung Á cũng có quần xã sinh vậtđồng cỏ trên núi và trảng cây bụi,trảng cây bụi xeric,rừng lá kim ôn đới.

Giáo dục

[sửa |sửa mã nguồn]
Các nước Trung Á

Cơ sởgiáo dụcđại học danh tiếng nhất tại các quốc gia Trung Á.

STTQuốc giaTrường đại họcTrụ sở chính]]
1 KazakhstanĐại học Quốc gia Kazakh Al-Farabi[26]Almaty
2 UzbekistanĐại học Quốc gia Uzbekistan[27]Tashkent
3 TurkmenistanĐại học Tổng hợp TurkmenistanAshgabat
4 TajikistanĐại học Tổng hợp Luật, Kinh doanh và Chính trị TajikistanDushanbe
5 KyrgyzstanĐại học Quốc gia KirgyzstanBishkek

Cơ quan lập pháp

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Danh sách các quốc gia theo cơ quan lập pháp

Cơ quan lập pháp tại các quốc gia Trung Á tập trung theo hai hệ thống, đơn viện gồm các quốc giaTurkmenistanKyrgyzstan, lưỡng viện gồm các quốc giaKazakhstan,UzbekistanTajikistan.Quốc hội Uzbekistan được xem là quốc hội có nhiều thành viên nhất tại Trung Á,với 250 thành viên.Quốc hội của Tajikistan có ít thành viên nhất,chỉ có 96 nghị sĩ.

STTQuốc giaTổng số ghếSố ghế tạithượng việnSố ghế tạihạ việnTuổi bầu cửĐứng đầu Quốc hộiNhiệm kỳ
1 Kazakhstan124 ghế47 ghế77 ghế18 tuổi trở lênChủ tịch Thượng viện và Phát ngôn viên Hạ viện6 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện
2 Uzbekistan250 ghế100 ghế150 ghế18 tuổi trở lênChủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện5 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện
3 Tajikistan96 ghế33 ghế63 ghế18 tuổi trở lênChủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện5 năm tại Thượng viện và 5 năm tại Hạ viện
4 Turkmenistan125 ghếKhông chia việnKhông chia viện18 tuổi trở lênChủ tịch Quốc hội5 năm
5 Kyrgyzstan120 ghếKhông chia việnKhông chia viện18 tuổi trở lênChủ tịch Quốc hội5 năm

Các tôn giáo chính

[sửa |sửa mã nguồn]

Những tôn giáo chính tại vùng Trung Á gồm có, theo thứ tự số:

[28]

Các nước Cộng hòa Trung Á

[sửa |sửa mã nguồn]

Các nước Cộng hòa Trung Á là nămnước nằm tại khu vực Trung Á trước đây thuộcLiên Xô, bao gồm:

Ngoài ra,Afghanistan cũng được nhiều ý kiến xem là một quốc gia thuộc khu vực này, bởi vì nó có nhiều điểm tương đồng với các quốc gia còn lại trên nhiều phương diện: xét về mặt địa lý, đây là mộtquốc gia nội lục không tiếp giáp với đại dương ởchâu Á, trong khi các quốc gia còn lại đều có đặc điểm này; còn xét về mặt văn hóa-tôn giáo,Hồi giáo (vốn là tôn giáo chiếm đa số trong thành phần dân cư của tất cả các quốc gia ở Trung Á) chiếm 99,7% tổng dân số Afghanistan, và làquốc giáo của đất nước. Tuy nhiên, nhiều ý kiến, nguồn thông tin thường xếp đây là một nước thuộcTây Á hayNam Á hơn, bởi vì trong lịch sử, khác với những quốc gia còn lại, quốc gia này chưa bao giờ là một bộ phận chinh thức củaĐế quốc Nga hayLiên Xô.

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Phật giáo Trung Á

Hồi giáo ở Trung Á

Tôn giáo Trung Á

Tengri giáo

Shaman giáo

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềTrung Á.
  1. ^abChu, Vĩ Châu; Đinh, Cảnh Thái (2006).Đại từ điển Con đường tơ lụa (bằng tiếng Trung). Tây An: Nhà xuất bản Nhân dân Thiểm Tây. tr. 54.ISBN 9787224060454.
  2. ^Cornell, Svante E.Modernization and Regional Cooperation in Central Asia: A New Spring?(PDF). Central Asia-Caucasus Institute and the Silk Road Studies.Russian scholars who used the term 'Middle Asia' synonymously with Turkestan used 'Central Asia' largely to refer to areas outside Russian control, including Afghanistan and 'East Turkestan'.
  3. ^Nguyễn, Trí Phú; Quách, Trung Tân (2009).Đại từ điển Hán ngữ hiện đại (quyển thượng) (bằng tiếng Trung). Thượng Hải: Nhà xuất bản Sách tra cứu Thượng Hải. tr. 122.ASIN B003Q47INY.ISBN 9787532629732.
  4. ^Dani, A. H.; Masson, V. M.; Harmatta, J.; Puri, B. N.; Etemadi, G. F.; Litvinskiĭ, B. A. (1992–2005).History of civilizations of Central Asia. Paris: Unesco. tr. 8.ISBN 9789231027192.OCLC 28186754.
  5. ^Polo, Marco; Smethurst, Paul (2005).The Travels of Marco Polo. tr. 676.ISBN 978-0-7607-6589-0.
  6. ^Ferrand, Gabriel (1913), "Ibn Batūtā", Relations de voyages et textes géographiques arabes, persans et turks relatifs à l'Extrème-Orient du 8e au 18e siècles (Volumes 1 and 2) (in French), Paris: Ernest Laroux, pp. 426–458
  7. ^Andrea, Bernadette. "Ibn Fadlan's Journey to Russia: A Tenth‐Century Traveler from Baghdad to the Volga River by Richard N. Frye: Review by Bernadette Andrea".Middle East Studies Association Bulletin. Quyển 41 số 2. tr. 201–202.doi:10.1017/S0026318400050744.S2CID 164228130.
  8. ^"DCP: Geographic Center of Asia (visit #1)".www.confluence.org.Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2022.
  9. ^Tạ Vân (ngày 25 tháng 10 năm 2022)."Nhà khoa học xác định Trung Á là "trạm trung chuyển" then chốt của tổ tiên loài người".en.gmw.cn (bằng tiếng Trung). Guangming Daily.Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2022.
  10. ^Mehmet Akif Okur 2014, tr. 74–75
  11. ^A Land Conquered by the MongolsLưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2008 tạiWayback Machine
  12. ^Bosworth, C. E."CENTRAL ASIA iv. In the Islamic Period up to the Mongols"".iranicaonline.org. tr. 169–172.ISBN 978-0-939214-69-3.Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023.In early Islamic times Persians tended to identify all the lands to the northeast of Khorasan and lying beyond the Oxus with the region of Turan, which in the Šāh-nāma of Ferdowsī is regarded as the land allotted to Ferēdūn's son Tūr. The denizens of Tūrān were held to include the Turks, in the first four centuries of Islam essentially those nomadizing beyond the Jaxartes, and behind them the Chinese (see Kowalski; Minorsky, "Tūrān"). Tūrān thus became both an ethnic and a geographical term, but always containing ambiguities and contradictions, arising from the fact that all through Islamic times the lands immediately beyond the Oxus and along its lower reaches were the homes not of Turks but of Iranian peoples, such as the Sogdians and Khwarezmians.
  13. ^Dani, Ahmad Hasan; Masson, Vadim Mikhaĭlovich; Harmatta, János; Litvinsky, B. A.; Bosworth, Clifford Edmund (1992).History of Civilizations of Central Asia (bằng tiếng Anh). Motilal Banarsidass. tr. 23.ISBN 978-81-208-1409-7.The Appearance of the Arabs in Central Asia under the Umayyads and the establishment of Islam", in History of Civilizations of Central Asia, Vol. IV: The Age of Achievement: AD 750 to the End of the Fifteenth Century, Part One: The Historical, Social and Economic Setting, edited by M. S. Asimov and C. E. Bosworth. Multiple History Series. Paris: Motilal Banarsidass Publ./UNESCO Publishing, 1999. excerpt from page 23: "Central Asia in the early seventh century, was ethnically, still largely an Iranian land whose people used various Middle Iranian languages.
  14. ^"Deported Nationalities".Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2012.
  15. ^"Anne Applebaum – Gulag: A History Intro".Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2012.
  16. ^Atabaki, Touraj; Mehendale, Sanjyot (2005).Central Asia and the Caucasus: Transnationalism and Diaspora (bằng tiếng Anh). Routledge. tr. 66.ISBN 978-0-415-33260-6.
  17. ^"Democracy Index 2011". Economist Intelligence Unit.Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
  18. ^Robert Greenall,Russians left behind in Central Asia,BBC News, ngày 23 tháng 11 năm 2005.
  19. ^Alekseenko, Aleksandr Nikolaevich (2000). Республика в зеркале переписей населения[Republic in the Mirror of the Population Censuses] (PDF).Population and Society: Newsletter of the Centre for Demography and Human Ecology (in Russian). Institute of Economic Forecasting of the Russian Academy of Sciences (47): 58–62. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2019.
  20. ^Christoph Marcinkowski,Shi'ite Identities: Community and Culture in Changing Social Contexts (Münster: LIT, 2010), 244.ISBN9783643800497
  21. ^Zürcher, Erik (2007).The Buddhist Conquest of China: The Spread and Adaptation of Buddhism in Early Medieval China. BRILL. tr. 23.ISBN 9789004156043.
  22. ^Megan Rancier,Turkic Soundscapes: From Shamanic Voices to Hip-Hop (London: Taylor & Francis, 2018), 258.ISBN9781351665957
  23. ^"Population of Central Asia - Worldometers".
  24. ^"Asian Religion - Religious data - GRF".Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2022.
  25. ^"Race, Religion, Ethnicity and Economics in Central Asia".
  26. ^"Al-Farabi Kazakh National University". Top Universities. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2015.
  27. ^"Top Universities in Uzbekistan".
  28. ^"Bản sao đã lưu trữ".Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2008.

Nguồn

[sửa |sửa mã nguồn]
Châu Phi
Bắc Mỹ
  • Hoa Kỳ lục địa
  • Bắc
  • Bắc México
  • Vịnh Mexico
  • Tây Ấn
  • Vùng Caribe (Đại Antilles,Tiểu Antilles,Quần đảo Lucayan
  • Vùng Tây Caribe
  • Trung
  • Eo đất Panama
  • Bờ biển Mosquito
  • Đại Trung
  • Trung Bộ châu Mỹ
  • Aridoamerica
  • Oasisamerica
  • Ănglê
  • Pháp
  • Latinh (Tây Ban Nha)
  • Nam Mỹ
  • Nam
  • Bắc (Las Guyanas)
  • Tây
  • Tây Ấn
  • Patagonia
  • Pampas
  • Pantanal
  • Amazon
  • Altiplano
  • Andes
  • Cao nguyên Brasil
  • Nam Mỹ Caribe
  • Gran Chaco
  • Los LLanos
  • Hoang mạc Atacama
  • Cordillera Mỹ
  • Cerrado
  • Latinh (Tây Ban Nha)
  • Vành đai lửa Thái Bình Dương
  • Châu Á
  • Trung
  • Viễn Đông
  • Đông 
  • Đông Nam
  • Bắc
  • Nam
  • Tây
  • Châu Á-Thái Bình Dương
  • Bài viết này vẫn cònsơ khai. Bạn có thể giúp Wikipediamở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

    Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trung_Á&oldid=74290477
    Thể loại:
    Thể loại ẩn:

    [8]ページ先頭

    ©2009-2025 Movatter.jp