^Dù trở thành cộng hòa ngày 1 tháng 8, Ngày Cộng hòa được kỷ niệm là ngày lễ công cộng vào 24 tháng 9 vì đây là ngày Quốc hội đầu tiên nhóm họp theo Hiến pháp Cộng hòa mới.[6]
Trinidad và Tobago (tiếng Anh:Trinidad and Tobago), tên chính thức làCộng hoà Trinidad và Tobago (tiếng Anh:Republic of Trinidad and Tobago) là một quốc gia nằm ở phía namBiển Caribe, 11km (7dặm) ngoài khơi bờ biểnVenezuela. Nước này là mộtđảo quốc[1] gồm hai đảo chính làTrinidad vàTobago cùng 21 đảo nhỏ với tổng diện tích 5.128 km² hay 1.864 mi². Ước tính dân số vào tháng 7 năm 2006 là 1.065.842 người.Chiều dài trung bình của Trinidad là 80 km vàchiều rộng trung bình là 59 km. Tobago là 41 km dài và 12 km ở điểm rộng nhất. Thủ đô làPort of Spain.
Đảo lớn và đông dân hơn là Trinidad (nghĩa là "Hòn đảo củaThiên Chúa Ba Ngôi" -Trinity), trong khi Tobago nhỏ hơn (303 km² hay 116 mi²; khoảng 6% tổng diện tích) và dân cư thưa thớt hơn (50.000 người; hay 5% tổng dân số). Các công dân chính thức được gọi là "người Trinidad" hay "người Tobago" hay "công dân của Trinidad và Tobago", nhưng người Trinidad thường để chỉ ngườiTrinis còn cả người Trinidad và người Tobago thường được gọi làTrinbagonians.
Không giống hầu hết các nước nóitiếng Anh ở vùng Caribbe, Trinidad và Tobago là một nước chủ yếucông nghiệp hóa với nền kinh tế dựa vàodầu mỏ vàhóa dầu. Những con cháu của ngườiChâu Phi và ngườiẤn Độ chiếm tới 80% dân số, phần còn lại chủ yếu là những người nhiều dòng máu với một số lượng nhỏ ngườichâu Âu,người Hoa vàngười Ả Rập. Trinidad và Tobago nổi tiếng vềLễ hội Carnival tiền-Lenten và là nơi ra đời của nhạc cụsteelpan, điệu nhạccalypso và lối khiêu vũlimbo.
Xu bạc 10 dollar Trinidad và Tobago, đúc năm 1972 kỷ niệm độc lập. Xu có tỷ lệ bạc 92,5% với trọng lượng 35,12gr
Cả Trinidad và Tobago đều đã từng là nơi cư trú củangười da đỏ có nguồn gốcNam Mỹ. Ít nhất, ở thời kỳ tiền nông nghiệp Archaic đã có người sinh sống tại Trinidad từ 7.000 năm trước, biến nó trở thành phần lục địa Caribbean có người sinh sống sớm nhất. Những dân tộc nông nghiệp sử dụng đồ gốm đã định cư tại Trinidad khoảng năm250 TCN và sau đó di chuyển tớidãy Lesser Antilles. Khi ngườichâu Âu tới đây, Trinidad là lãnh thổ của nhiều bộ tộc sử dụng các ngôn ngữArawakan vàCariban gồm Nepoya, Suppoya và Yao; trong khi Tobago thuộc quyền kiểm soát củaĐảo Caribs vàGalibi. Tên gọi Trinidad của người da đỏ làKairi hayIere thường được dịch thành "Vùng đất của loàiChim ruồi", dù nhiều người khác cho rằng nó chỉ đơn giản có nghĩa là "hòn đảo".Cristoforo Colombo đã tới đảo Trinidad vào ngày31 tháng 7 năm1498 và đặt tên nó theoChúa ba ngôi (Trinity). Colombo cũng đã nhìn thấy Tobago, mà ông gọi làBella Forma, nhưng ông không đổ bộ lên đảo này. Cái tên Tobago có lẽ bắt nguồn từ chữtobacco (thuốc lá).
Buổi đầu ngườiTây Ban Nha thiết lập cơ sở tại Trinidad, nhưng vì thiếu dân tới định cư nên cuối cùng họ cho phép tất cả mọi người châu Âu theoCơ đốc giáo định cư trên hòn đảo, dẫn tới những cuộc di cư từ Pháp và các nước khác. Trong lúc đó, Tobago hết thuộc quyền cai trị củaAnh đếnPháp đếnHà Lan vàCourland. Anh đã củng cố quyền lực của mình trên cả hai hòn đảo trong thời gianChiến tranh Napoléon, và họ gộp chúng vào thànhthuộc địa Trinidad và Tobago năm1889. Vì những cuộc tranh giành thuộc địa đó, nhữngtên địa điểm theo tiếng của thổ dânchâu Mỹ,tiếng Tây Ban Nha,tiếng Pháp vàtiếng Anh rất phổ biến tại quốc gia này. Những người nô lệchâu Phi, ngườiẤn Độ,Trung Quốc,Bồ Đào Nha và những người lao động tự do từ châu Phi đã tới đây bổ sung vào lực lượng lao động trongthế kỷ XIX và đầuthế kỷ XX.
Dù ban đầu là một thuộc địa vớimía vàcacao là hai sản phẩm chủ lực của nền kinh tế ở thời điểm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Sau sự giảm sút sản lượng cacao (vì bệnh dịch và cuộcĐại khủng hoảng)dầu mỏ dần chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế. Cuộc khủng hoảng và sự gia tăng thị phần dầu mỏ trong nền kinh tế dẫn tới những thay đổi trong cấu trúc xã hội.
Năm1970, một số sinh viên đã tụ tập trước sứ quánCanada để phản đối khoản lệ phívisa cho sinh viên, ở thời ấy là kiểu bắt chước làn sóng nhân quyềnthập niên 1960 tại Bắc Mỹ. Kết quả là cái mà ngày nay chúng ta gọi là Những cuộc nổi loạn quyền lực đen năm 1970[cần dẫn nguồn].
Năm1990, 114 người thuộcJamaat al Muslimeen, doYasin Abu Bakr (trước đó thường được gọi là Lennox Phillip) lãnh đạo, đã xông vào Nghị viện Trinidad & Tobago tạiNhà Đỏ, và đài truyền hình duy nhất đất nước ở thời điểm đó, giữ chính phủ làm con tin trong sáu ngày. Vụ này đã được giải quyết và từ đó đất nước hoàn toàn thanh bình.
Dầu mỏ, hóa dầu vàkhí tự nhiên tiếp tục là xương sống của nền kinh tế quốc gia. Du lịch cũng là một nhân tố chủ chốt của kinh tế Tobago, và hòn đảo này vẫn là điểm đến ưa thích của nhiều khách du lịch châu Âu. Trinidad và Tobago là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất vùng Caribbean, dù đã có sút kém so với thời "bùng nổ dầu mỏ" trong khoảng giữa1973 và1983.
Năm 1991,Patrick Manning được bổ nhiệm làmThủ tướng. Trong nhiều năm, giới lãnh đạo phải đương đầu với các cuộc nổi dậy của nhân dân phát sinh từ những khó khăn kinh tế và những đối kháng của thành phần cấp tiến. Tình trạngthất nghiệp và dư thừa nhân công là một trong những vấn đề dai dẳng ở đảo quốc này vàphần lớn nhân dân đòiChính phủquốc hữu hóa các ngànhcông nghiệp sản xuấtđường vàdầu mỏ hiện đang thuộc quyền kiểm soát của các công ty nước ngoài.
Nghị viện gồm hai cấp,Thượng viện (31 thành viên) vàHạ viện (36 thành viên, sẽ tăng lên thành 41 thành viên kể từ cuộc bầu cử sau). Các thành viên thượng nghị viện do tổng thống chỉ định. Mười sáu Thượng nghị sĩ Chính phủ được chỉ định theo sự gợi ý của Thủ tướng, sáu Thượng nghị sĩ Đối lập được chỉ định theo sự gợi ý của Lãnh đạo phe đối lập và chín Thượng nghị sĩ độc lập được chỉ định bởi Tổng thống để đại diện cho những lĩnh vực dân sự xã hội khác. 36 thành viên của Hạ nghị viện do nhân dâu bầu ra với nhiệm kỳ tối đa 5 năm.
Đảng Cộng sản Trinidad và Tobago là một đảng chính trị Marxist-Leninist thân Albania ở Trinidad và Tobago. Đảng này được thành lập vào tháng 8 năm 1979. Một nguồn tin cho rằng nó được thành lập bởiHardial Bains, lãnh đạo Đảng Cộng sảnCanada (Marxist-Leninist). CPTT xuất bảnĐấu tranh giai cấp.
Nhiều thành viên của Đảng này đã từ bỏ lập trường cộng sản cứng rắn của họ vào thời điểm những năm 1980 kết thúc trùng với sự sụp đổ của Liên Xô. Các thành viên cũ Michael Als vàWade Mark đã tham gia vào chính trị đảng vào cuối những năm 1990.
Bản đồ Trinidad và Tobago - Click để xem ảnh kích thước lớn
Nước này gồm hai hòn đảo chính,Trinidad vàTobago, và21 hòn đảo nhỏ hơn, các hòn đảo lớn nhất gồmChacachacare,Monos,Huevos,Gaspar Grande (hay Gasparee),Little Tobago vàSt. Giles Is. Lãnh thổ đảo là hỗn hợp giữa các đồng bằng và các vùng núi. Điểm cao nhất nước nằm tạiDãy phía Bắc ởEl Cerro del Aripo với độ cao 940 mét (3.085foot) trên mực nước biển. Khí hậu nhiệt đới. Một năm có hai mùa:mùa khô trong sáu tháng đầu năm, vàmùa mưa ở nửa cuối năm. Gió thường tới từ hướng đông bắc và thường bị ảnh hưởng bởigió mậu dịchĐông Bắc. Không giống như hầu hết các hòn đảo khác ở vùng Caribbean, Trinidad và Tobago không bị ảnh hưởng bởi các cơn bão mạnh có sức tàn phá lớn nhưBão Ivan, trận bão mạnh nhất đi qua gần hòn đảo này trong giai đoạn gần đây vàotháng 12 năm2004.
Đa số dân cư sống trên hòn đảo Trinidad, đây là nơi có nhiều thành phố và khu thị tứ lớn. Trinidad có ba vùng đô thị:Port of Spain, thủ đô,San Fernando, vàChaguanas. Trong số ba vùng đó, Chaguanas có tốc độ phát triển nhanh nhất. Thành phố lớn nhất tại Tobago làScarborough.
Trinidad được tạo nên từ nhiều kiểu nền đất khác nhau, đa phần là cát mịn và đất sét nặng. Các châu thổ đất bồi của Dãy phía bắc và vùng đất "Hành lang Đông Tây" là màu mỡ nhất.
Dù chỉ nằm ngay ngoài khơi bờ biển phía đôngVenezuela củaNam Mỹ, Trinidad và Tobago thường được coi là một phần của lục địaBắc Mỹ vì nó có tính chất xã hội của một quốc gia vùng Caribbean.XemCác quốc gia liên lục địa.
Trinidad và Tobago nổi tiếng là một địa điểm đầu tư tuyệt vời cho giới doanh nhân quốc tế. Một lĩnh vực phát triển hàng đầu trong bốn năm qua làkhí tự nhiên.Du lịch là lĩnh vực đang phát triển, dù không chiếm tỷ trọng cao như nhiều hòn đảo vùng Caribbean khác. Nền kinh tế nước này có lợi thế nhờlạm phát thấp và thặng dư thương mại. Năm 2002 được đánh dấu bởi sự phát triển vững chắc của khu vựcdầu khí, bù lại một phần cho tình trạng không ổn định chính trị trong nước.
Đặc điểm khí hậu ởđảo quốc này giúp phát triển các loại cây trồng nhiệt đới, đặc biệt là các đồn điềnmía với sản lượng 129.000 tấnđường mỗi năm (1994). Các loại nông sản khác gồm:ca cao,cà phê,chuối, cam quýt, cơm dừa. Ngành chăn nuôi cũng rất phát triển.
Công nghiệp chủ yếu dựa vào khai tháchyđrocacbon.Hồ Pitch ở phía Tây Namđảo Trinidad, được khai thác từthế kỷ XVI, hiện nay cung cấp 108.000 tấn bitum (dùng làmnhựa rải đường) và phần lớn đượcxuất khẩu. Các vỉa dầu phần lớn ở miền Nam Trinidad cung cấp hơn 7 triệu tấn/năm (1994). Khai tháckhí đốt cũng trên đà gia tăng.Dầu mỏ được xuất khẩu sangHoa Kỳ vàVương quốc Anh. Phần lớn giếng dầu và các nhà máy lọc dầu đều nằm trong tay các công ty củaHoa Kỳ. Sản lượng hyđrocacbon chiếm 80% tổng giá trị các loại sản phẩm xuất khẩu. Khí hậu ôn hòa, phong cảnh thiên nhiên đẹp và mạng lưới giao thông vận tải tốt giúp cho ngànhdu lịch mang lại một nguồn thu nhập đáng kể.
Tính đến năm 2016, GDP của Trinidad và Tobago đạt 22.809 USD, đứng thứ 106 thế giới và đứng số 1 khu vực Caribe.
Thành phần dân tộc của Trinidad và Tobago phản ánh một lịch sử chinh phục và di cư. Hai nhóm dân tộc chính -người Trinidad gốc Ấn (Indo-Trinidadian) vàngười Trinidad gốc Phi - chiếm tới 80% dân số, trong khi những người dânđa chủng tộc, con cháu của người Trinidad gốc Âu/người châu Âu, người Trinidad gốc Trung Quốc/người Hoa và người Trinidad gốc Ả Rập/người Syria-người Liban chiếm đa phần số còn lại. Theo cuộc điều tra dân số năm1990, người Trinidad gốc Ấn chiếm 40,3% dân số, người Trinidad gốc Phi chiếm 39,5%, người đa chủng 18,4%, người Trinidad gốc Âu 0,6% và người Hoa, người Syria và các sắc tộc khác 1,2%. Người Trinidad gốc Âu, đặc biệt là hậu duệ của tầng lớp chủ đất cũ, thường được gọi làngười Pháp Creole, thậm chí nếu tổ tiên họ là người di cư đến từTây Ban Nha,Anh,Bồ Đào Nha[1] hayĐức. Nhóm ngườiCocoa Payol đa chủng là con cháu của người định cư Tây Ban Nha và những người nhập cư đến từVenezuela. Dân TriniBồ Đào Nha gồm cả người da trắng và người lai. Nhóm thiểu số da đỏ châu Mỹ phần lớn là đa chủng - nhóm thiểu số rất nhỏCarib, hậu duệ của những thổ dân bản địa, được tổ chức xung quanhCộng đồng Santa Rosa Carib.
Sựdi cư ra khỏi Trinidad và Tobago, cũng như đối với các nước Caribbean khác, đạt mức độ cao trong lịch sử; đa số họ tớiHoa Kỳ, cònCanada vàAnh tiếp nhận hầu hết số còn lại. Sự di cư này vẫn đang tiếp diễn, dù ở mức độ thấp hơn, thậm chí tỷ lệ sinh đã giảm mạnh tới mức tương đương với các nước phát triển.
Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức của quốc gia, nhưngtiếng Bhojpuri, ở trong nước thường được gọi làtiếng Hindi, cũng được sử dụng bởi một số người Trinidad gốc Ấn và hiện diện nhiều trong âm nhạc bình dân. Ngôn ngữ chính, tiếng Anh-Trinidad vừa được xếp hạng là mộtthổ ngữ vừa là một biến thể của tiếng Anh hay một kiểutiếng Anh lai Trinidad (Trinidadian Creole English). Ngôn ngữ được sử dụng nhiều ở Tobago làtiếng Anh lai Tobago (Tobagonian Creole English). Cả hai ngôn ngữ đều chứa đựng các yếu tốchâu Phi; tuy nhiên, tiếng Anh Trinidad bị ảnh hưởng nhiều từtiếng Pháp vàtiếng Pháp lai cũng như tiếng Bhojpuri/Hindi. Các ngôn ngữ châu Mỹ và các thứ tiếng địa phương thường chỉ được sử dụng trong những dịp không chính thức, và cho tới nay vẫn chưa có một hệ thống chuẩn hóa cách viết (giống như trong tiếng Anh tiêu chuẩn). Những vị du khách tới đây trong một thời gian ngắn không cần phải lo ngại về việc học tiếng địa phương/tiếng châu Mỹ, vì hầu như mọi người đều nói và hiểu được tiếng Anh. Tuy nhiên, thường thì người dân sử dụng tiếng địa phương/tiếng châu Mỹ để nói chuyện với nhau. Dù tiếng địa phương (một loại tiếng Pháp lai) từng là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi trên hòn đảo này (và tại vùng bờ biển Paria Venezuela), nhưng hiện nay đã không còn giữ được vị trí đó nữa.
Vì vị trí của Trinidad nằm trên bờ biểnNam Mỹ, nước này không phát triển nhiều quan hệ với các dân tộc nóitiếng Tây Ban Nha, vì thế cho tới năm 2004 chỉ có 1.500 trên tổng số 1,3 triệu dân Trinidad nói tiếng Tây Ban Nha.2.^ Năm 2004 chính phủ đã đưa ra sáng kiến "Tiếng Tây Ban Nha - Ngoại ngữ số một (SAFFL)"[2]Lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2007 tạiWayback Machine, và công bố rộng rãi vào tháng 3 năm 2005. Các quy định của chính phủ hiện nay buộc các trường cao học phải dạy tiếng Tây Ban Nha cho sinh viên, trong khi 30% công chức sẽ phải có khả năng sử dụng ngôn ngữ này trong 5 năm tới. Người Venezuela thường tới Trinidad và Tobago để học tiếng Anh, và nhiều trường tiếng Anh đã mở rộng cả việc giảng dạy tiếng Tây Ban Nha.
Hoa Chaconia(Warszewiczia coccinea) là loại hoa biểu tượng quốc gia của Trinidad và Tobago
Trinidad và Tobago nổi tiếng về các lễ hội tuần chay của họ. Nước này cũng là nơi sản sinh ra âm nhạccalypso và nhạc cụsteelpan, được nhiều người công nhận là nhạc cụ duy nhất được phát minh ra trong thế kỷ XX. Nền văn hóa và tôn giáo đa dạng khiến nước này có nhiều lễ hội trong suốt năm. Các loại nghệ thuật bản xứ khác gồm âm nhạcSoca (một âm nhạc bắt nguồn từ calypso),Parang (âm nhạc Giáng sinh ảnh hưởng từVenezuela), âm nhạcchutney, vàpichakaree (các hình thức âm nhạc pha trộn giữa âm nhạc Caribbean và Ấn Độ) và điệu nhảylimbo nổi tiếng.
Thứ hai và Thứ ba ngay tiếp sauThứ tư tuần chay. Dù nhiều công sở và trường học đóng cửa cho Lễ Carnival Thứ hai và Thứ ba, chúng không chính thức là ngày nghỉ lễ.
Kết thúc thángRamadan. Đây là lễ duy nhất ở Trinidad và Tobago củaĐạo Hồi. Dù nó là ngày lễ quan trọng nhất theoLịch Hồi giáo nó không phải là ngày lễHồi giáo nổi tiếng và có nhiều người tham gia nhất đất nước.
^Bridglal, Carla (ngày 12 tháng 3 năm 2013)."Allowing govt to manage better".Trinidad Express.Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2013.