Bài này viết về thực thể văn hóa trên bán đảo Triều Tiên. Ngoài ra, "Triều Tiên" còn được dùng để chỉ đến chính thể nhà nướcCộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên nằm tại miền bắc bán đảo và "Hàn Quốc" dùng để chỉ đếnĐại Hàn Dân Quốc nằm tại miền nam bán đảo. Về các nghĩa khác, xemTriều Tiên (định hướng).
Hiện nay, Triều Tiên được chia ra thành hai chính thể: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc là một quốc giađơn đảng sử dụng thuyếtChủ thể làm nền tảng vàĐại Hàn Dân Quốc ở phía nam là một nhà nướcđa đảng theo thể chếCộng hoà Tổng thống.
Là một trong những nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới, Triều Tiên có lịch sử được ghi chép sớm nhất vào khoảng hơn 3000 năm. Trong thế kỷ thứ IV, họ đã bắt đầu sử dụng hệ thốngchữ Hán và chịu ảnh hưởng củaPhật Giáo, về sau,Nho Giáo củaKhổng Tử và nhiều khía cạnh văn hóa khác du nhập từTrung Hoa dần có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội này.
Sau khi thống nhấtTam Quốc vào năm 676, Triều Tiên giữ được độc lập về lãnh thổ, chính trị cũng như văn hóa cho đến khi bịĐế quốc Mông Cổ xâm lược trong thế kỷ XIII. Trong nhiều thế kỷ kế tiếp, Triều Tiên duy trì một liên minh gần gũi, thân cận với các triều đại phong kiến Trung Quốc, trong khi cũng đồng thời giữ gìn bản sắc của riêng mình.
Năm 1910, Triều Tiên bịĐế quốc Nhật Bản sáp nhập và trở thànhthuộc địa của người Nhật cho đến giai đoạn cuối củaChiến tranh thế giới thứ hai. Sau khiNhật Bản đầu hàng, bán đảo đượcquân đội Đồng Minh giải phóng, tuy nhiên, các lực lượng quân sự củaLiên Xô vàHoa Kỳ đã không thể tìm kiếm thành công một phương án đồng ủy trị cho nơi đây. Cuối cùng, hai quốc gia lần lượt lập nên những chính phủ trung thành với ý thức hệ của họ, dẫn đến hệ quả làChiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và sự chia cắt vĩnh viễn của bán đảo này. Hiện nay, hai miền đang nỗ lực đàm phán và đối thoại nhằm tiến tới hòa bình lâu dài cũng nhưtái thống nhất.
Tên gọi "Korea" xuất phát từ thời kỳCao Ly tronglịch sử Triều Tiên và cũng xuất phát từ nhà nướcCao Câu Ly. Ngày nay, tên gọi "Korea" được quốc tế sử dụng để chỉ đến cả hai nước của Triều Tiên. Tại nướcViệt Nam, khu vực này được gọi chính thức vớidanh xưng là "bán đảo Triều Tiên".
Phần phía nam và phía tây của vùng đất lục địa Triều Tiên là những đồng bằng phát triển, trong khi phần phía tây và phía bắc có nhiều đồi núi. Núi cao nhất Triều Tiên lànúi Bạch Đầu (Baekdu) (2744 m, Trung Quốc gọi là "núi Trường Bạch"). Biên giới với Trung Quốc chạy qua dãy núi này. Phần kéo dài về phía nam của núi Bạch Đầu là một cao nguyên gọi là cao nguyênKaema.Cao nguyên này chủ yếu được nâng lên vào thờiĐại Tân Sinh và một phần bị bao phủ bởi tronúi lửa. Về phía nam của Gaema Gowon, nhiều dãy núi kế tiếp toạ lạc dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo Triều Tiên. Những dãy núi này được đặt tên làBaekdudaegan (Bạch Đầu đại cán). Một số núi quan trọng bao gồmSobaeksan (2.184 m),Baeksan (1.724 m),Kim Cương sơn (1.638 m),Seoraksan (1.708 m),Taebaeksan (1.567 m) vàJirisan (1.915 m). Có một số núi thấp hơn, những dãy núi thứ hai có hướng gần như vuông góc với hướng núi Baekdudaegan. Chúng phát triển dọc theo đường nối lục địa thờiĐại Trung Sinh và hướng của chúng là tây bắc và tây tây bắc.
Tương phản với những dãy núi cổ trên lục địa, một số đảo quan trọng của Triều Tiên được hình thành bởi các hoạt động núi lửa trong thời Đại Tân Sinh gần đây. Đảo Jeju, tọa lạc xa về phía nam của bán đảo Triều Tiên, là một đảo núi lửa lớn với núi chính làHallasan (1950 m). Ulleungdo là đảo núi lửa trên Biển Nhật Bản, mà thành phần có nhiều felsic hơn Jeju. Những đảo núi lửa có xu hướng trẻ hơn đối với các núi di chuyển về phía tây.
Bởi vì những vùng núi có hướng ngả về phần đông của bán đảo, những con sông lớn có xu hướng chảy về phía tây. Hai trường hợp ngoại lệ làsông Nakdong và sông Seomjin chảy về phía nam. Các con sông quan trọng chảy về phía tây bao gồmsông Áp Lục,sông Chongchon,sông Đại Đồng,sông Hán,sông Geum và sôngYeongsan. Những con sông này làm ngập các đồng bằng và cung cấp một môi trường lý tưởng cho việc trồng lúa.
Phía nam và tây nam bờ biển của bán đảo Triều Tiên là đường bờ biển Lias khá phát triển. Nó được biết đến như làDadohae trong tiếng Triều Tiên. Đường bờ biển phức tạp tạo ra những biển ôn hòa và môi trường biển tĩnh lặng cho phép tàu thuyền đi lại an toàn, đánh cá và trồng rong biển. Thêm vào đường bờ biển phức tạp, bờ phía tây của bán đảo Triều Tiên có cường độthủy triều rất cao (tạiIncheon, khoảng giữa bờ biển phía tây, nó cao đến 9 m). Những tấm chắn thủy triều lớn đang được phát triển trên bờ biển phía nam và tây của bán đảo Triều Tiên.
Đã có bằng chứng khảo cổ cho thấyloài người đã sống trênbán đảo Triều Tiên khoảng 700.000 năm trước, trongthời kỳ Hạ Đồ đá cũ. Đồgốm Triều Tiên cổ xưa nhất có từ khoảng năm 7000 TCN, vàthời kỳ Đồ đá mới bắt đầu khoảng năm 6000 TCN. Thời kỳ đồ gốm Trất Văn kéo dài từ 3500 TCN đến 2000 TCN.
Theo sự tíchĐàn Quân, Triều Tiên được thành lập năm 2333 TCN. Quốc gia này được biết đến với tên Triều Tiên, thường được gọi làCổ Triều Tiên để phân biệt vớinhà Triều Tiên. Các nhà khảo cổ đã khai quật được các đồ tạo tác của Cổ Triều Tiên và các thành cổ khắp Triều Tiên và miền namMãn Châu.
Các tài liệu khảo cổ và sử sách cho biết nó có thể được thành lập từ một liên minh của các thành thành một nhà nước tập trung vào giữa thế kỷ VII và IV TCN, khi nó tự xưng là một vương triều và tuyên chiến vớinhà Chu. Năm 108 TCN,nhà Hán tạiTrung Quốc đã đánh bại Cổ Triều Tiên và lập ra 4 quận tại miền bắc Triều Tiên (kể cả một quận gầnBình Nhưỡng) vàMãn Châu chủ yếu để làm tiền đồn buôn bán. Đến 75 TCN, ba trong bốn quận đã bị thất thủ, nhưng còn một quận nằm dưới sự cai trị của nhà Hán cho tới năm 313.
Một quốc gia với tên gọiThìn Quốc tồn tại ở miền nam Triều Tiên trước khi Cổ Triều Tiên bị sụp đổ. Tuy rất ít được biết về tổ chức chính trị của quốc gia này, các tạo tác bằng đồng thiếc từ thế kỷ III và II trướcCông Nguyên đã được khai quật trong khu vực.Tam Hàn, ba liên minh có nguồn gốc từ Thìn, thay nước Thìn. Tại miền bắc, quốc giaCao Câu Ly đã thống nhấtPhù Dư,Ốc Trở vàĐông Uế trong lãnh thổ Cổ Triều Tiên trước kia, và tiêu diệt quận của người Hán vào năm 313.
Ba nướcCao Câu Ly,Tân La vàBách Tế (hai nước sau phát sinh từ Tam Hàn) giành quyền với nhau và thâu tính các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực. Tổ chức nhà nước tinh vi được phát triển dưới dạngKhổng giáo vàPhật giáo.
Cao Câu Ly là nước mạnh nhất, nhưng luôn giao chiến vớinhà Tùy vànhà Đường tại Trung Quốc. Trongthế kỷ thứ VII,Tùy Dạng Đế đã đem 100 vạn quân qua xâm lấn Cao Câu Ly. Tuy nhiên, người Triều Tiên, dưới sự chỉ huy của tướngEulji Mundeok (Ất Chi Văn Đức) đã đánh bại quân Hán. Việc này đã dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tùy. Nhà Đường cũng tiếp tục giao chiến với Cao Câu Ly.
Tuy là nước lạc hậu nhất trong lĩnh vực văn hóa trong Tam Quốc,Tân La có một truyền thống quân sự xung quanh các chiến sĩ được gọi làhoa lang (hwarang). Thoạt tiên Tân La sáp nhập khốiGià Da (Gaya), rồi liên minh với nhà Đường để thâu tính Bách Tế và, sau này, Cao Câu Ly. Việc này tạo ra nhà nước thống nhất đầu tiên tại Triều Tiên, thường được gọi làTân La Thống nhất.
Tân La cuối cùng đuổi được quân nhà Đường ra khỏi lãnh thổ Cao Câu Ly. Vì lẽ đó, đếnthế kỷ thứ VIII, Tân La đã quản lý hầu hết bán đảo Triều Tiên và vì thế được gọi là Tân La Thống nhất. Đến cuốithế kỷ thứ IX, Tân La Thống nhất sụp đổ và thờiHậu Tam Quốc bắt đầu.
Sau khi Cao Câu Ly sụp đổ, tướngĐại Tộ Vinh (Dae Joyeong) lãnh đạo quân dân đến khu vựcCát Lâm của Mãn Châu. Vị tướng này thành lập nướcBột Hải như nhà nước tiếp kế Cao Câu Ly và giành lại được khu vực miền bắc bị mất. Cuối cùng, lãnh thổ Bội Hải đã trải dài từTùng Hoa Giang vàHắc Long Giang ở miền bắc Mãn Châu đến các tỉnh miền bắc Triều Tiên. Trongthế kỷ thứ X, Bột Hải đã bị ngườiKhiết Đan chiếm đóng.
Vương triềuCao Ly thay thếTân La Thống nhất. Nhiều vương thân từ nước Bột Hải cũng tham gia vào quốc gia mới này, có lãnh thổ rộng hơn bán đảo Triều Tiên (xemGian Đảo, nay dưới sự quản lý của Trung Quốc). Trong thời kỳ này, luật pháp đã được soạn ra, một hệ thống quan lại cũng ra mắt vào thời điểm này, vàPhật giáo trở thành thịnh hành tại Triều Tiên.
Trongthế kỷ thứ X vàXI, Triều Tiên tiếp tục bị ngườiNữ Chân vàKhiết Đan tấn công tại biên giới phía bắc. Xung đột giữa các quan lại văn và võ ngày càng tăng khi các quan võ bị hạ thấp địa vị và được trả tiền ít hơn. Việc này khiến nhiều tướng cầm quân nổi loạn và một số khác di cư tại nơi khác.
Trong năm 1238, quânMông Cổ xâm chiếm Triều Tiên. Sau gần 30 năm kháng chiến, Triều Tiên tiêu tàn và hai nước ký hiệp ước có lợi cho Mông Cổ. Dưới sự điều khiển của Mông Cổ, Cao Ly tham gia vào hai cuộc xâm chiếm Nhật Bản không thành. Trongthập niên 1340,Đế quốc Mông Cổ bị nhanh chóng suy sụp vì có xung đột nội bộ. Lúc này Triều Tiên có thể cải cách chính trị mà không bị Mông Cổ quấy rối. Vào thời điểm này, tướngLý Thành Quế (Yi Seong-gye) lập danh cho mình bằng cách đánh đuổi hải tặc Nhật Bản, được gọi làUy khấu (giặc lùn), đã cướp bóc từ các tàu lái buôn của Trung Quốc và Triều Tiên và tàn phá bờ biển Triều Tiên.
Năm 1392, Ly Thành Quế thành lậpnhà Triều Tiên (Joseon), dời thủ đô đến Hán Thành (Hanseong, nay làSeoul). Trong 200 năm đầu của triều đại này, lãnh thổ miền Bắc được thêm vào, diện tích đất trồng trọt được tăng gấp hai, khoa học và kỹ thuật phát triển, chữ viết mớiHangul phù hợp vớitiếng Triều Tiên được sáng chế, và nhiều sách vở về giáo dục cơ bản được xuất bản, trong khi hiến pháp và luật pháp được hoàn thành.
Trong cuốithập niên 1590, Nhật Bản hai lần xâm lăng Triều Tiên nhưng không thành, gây ra nhiều sự tàn phá. Những người xâm lược đốt hết những gì họ không đem về Nhật Bản được và nhiều tạo tác văn hóa bị mất tích. Với sự giúp đỡ củaquân Minh và tàu chiến bọc sắc của đô đốcLý Thuấn Thần (Yi Sunsin), quân Triều Tiên đẩy lùi được quân Nhật.
Tuy thế, sau sự xâm lăng của Nhật Bản, trongthập niên 1620 và1630 nhà Triều Tiên không thể kháng cự quân Mãn Châu. Cuối cùng nó phải công nhậnnhà Thanh là triều đại tạiTrung Quốc. Sau đó Triều Tiên được hai thế kỷ hoà bình. Quốc gia này đã cách ly với thế giới bên ngoài vào thời điểm này và được gọi là "Vương triều ẩn dật".
Nhà Triều Tiên được cho là triều đại cai trị lâu dài nhất tạiĐông Á.
Sự cai trị của Nhật rất tàn bạo và nhiều người Triều Tiên đã kháng cự, cuối cùng dẫn đếnphong trào đòi độc lập. Phong trào này đã bị Nhật đàn áp dã man và hàng ngàn người đã bị Nhật giết hại.
TrongChiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người Triều Tiên đã bị cưỡng bức hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Nhật. Hàng vạn người đàn ông đã bị bắt đi lính trong quân đội Nhật, trong khi đến 200.000 phụ nữ đã bị cưỡng bức lao động hay làm nô lệ tình dục, được gọi là "úy an phụ" (慰安婦, 위안부). Khoảng 60.000 người Triều Tiên làm việc trong hầm mỏ đã bị thiệt mạng giữa 1939 và 1945, và vô số khác bị dùng làm thí nghiệm choĐơn vị 731.
Thái độ bài Nhật vẫn còn mạnh mẽ tại Triều Tiên, đặc biệt là trong thế hệ già, vì họ tin rằng Nhật Bản không tỏ ra hối hận cho những điều sai trái này.
Sau khi Nhật Bản đầu hàng vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính phủđế quốc Nhật được thay thế bởi sự hiện diện củaHoa Kỳ vàLiên Xô. Liên Xô ủng hộ chính quyền miền bắc, đồng thời cũng có quan hệ vớiTrung Quốc;Hoa Kỳ có quan hệ gần gũi với chính quyền ở miền nam, giúp đỡ những người có kinh nghiệm dưới thời Nhật lên cầm quyền và đàn áp những người cộng sản. Người Triều Tiên bịchia rẽ: những người tay sai Nhật thiếu sự tín nhiệm của người dân, nhưng họ có nhiều kinh nghiệm và giữ quyền.Chủ nghĩa cộng sản ngày càng thâm nhập vào Triều Tiên và những người Triều Tiên đã từng chiến đấu chống Nhật cùng với Trung Quốc được nhiều quyền lực và danh tiếng.
Tuy nhiên, sau khi Mỹ rời khỏi Hàn Quốc và chỉ để lại một số cố vấn, Triều Tiên đưa quân đội vượtvĩ tuyến 38 nhằm mục đích thống nhất đất nước. Chiến tranh bắt đầu vào tháng 6 năm 1950 và diễn tiến đến năm 1953. Hoa Kỳ hậu thuẫn miền nam vàTrung Quốc hậu thuẫn miền bắc. Hàng triệu người Triều Tiên bị thiệt mạng. Sau ba năm dữ dội, chiến tranh kết thúc với một hiệp ước đình chiến, và ranh giới của hai nước trở lại gần như cũ. Hai nước vẫn chưa ký hiệp ước hòa bình. Cả hai bên đều tuyên bố thống nhất là mục đích cuối của họ.
Từthập niên 1990, với chính quyền ở Hàn Quốc ngày càng tự do hơn, cũng như sau sự qua đời của lãnh tụ CHDCND Triều TiênKim Nhật Thành, hai bên đã có những bước tiến đến cộng tác, trong các cuộc thi thể thao quốc tế, việc đoàn tụ thân nhân, kinh tế và du lịch.
Gần đây, trong nỗ lực hòa hảo, hai quốc gia đã chọn mộtCờ Thống nhất. Lá cờ này tượng trưng cho Triều Tiên trong các cuộc thi thể thao quốc tế.
Triều Tiên được định cư bởi một sắc tộc thuần nhất là người Triều Tiên. Họ sử dụng mộtngôn ngữ riêng làtiếng Triều Tiên và hệ thống chữ viết đặc thùHangul.
Sắc tộc thiểu số sinh sống trên bán đảo Triều Tiên có thể kể tớingười Hoa (khoảng gần 20.000) ([1]Lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2007 tạiWayback Machine) chủ yếu ở Hàn Quốc. Ngoài ra có một vài nhóm cộng đồng người gốc Hoa và gốc Nhật được cho là còn định cư ở phía bắc Triều Tiên[2]Lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2007 tạiWayback Machine).
Lực lượng lao động nước ngoài ở Hàn Quốc chủ yếu bao gồm những lao động đến từ các nước nhưBangladesh,Pakistan,Philippines vàViệt Nam, tổng cộng khoảng hơn nửa triệu. Cũng có thể kể tới hơn 10.000người Mỹ,Úc,Anh,Canada,Ireland làm công tác giảng dạytiếng Anh tại đây. Và khoảng 30.000 lính Mỹ đồn trú thường trực trên lãnh thổ phía Nam Hàn Quốc.
Tổng dân số trên bán đảo Triều Tiên tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022 là 77,377,377 người.
Chiêm tinh đài, đài quan sát thiên văn xưa nhất tại Đông Á còn tồn tại
Một trong những di tích nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học và kỹ thuật của Triều Tiên làChiêm tinh đài (Cheomseongdae), một đài quan sát thiên văn cao 9 mét xây dựng vào năm 633. Nó phục vụ như là một trong những trạm quan sát thiên văn cổ xưa nhất của thế giới.
Tài liệu được in ấn xưa nhất trên thế giới là một quyển kinh Phật in tại Triều Tiên vào khoảng 750-751. Bản in bằngkim loại di chuyển được phát minh ở Triều Tiên vào năm 1232, trước khiJohann Gutenberg phát triểnbản in chữ bằng kim loại (Cumings 1997: 65). Mặc dù người Triều Tiên sử dụng các khuôn in bằng gỗ vào năm 751, đây là một phát triển đáng kể trong việc in ấn cho phép tiếp tục sử dụng một khuôn in cũ.Hangul, một trong những ngôn ngữ phiên âm khoa học nhất thế giới, được tạo ra bởi vuaThế Tông vào năm 1443. Một trong những đồng hồ nước tự động đầu tiên trên thế giới được sáng chế năm 1434 bởiChang Yong-sil, người sau này phát triển các loại đồng hồ nước phức tạp hơn với các thiết bị thiên văn, đo nước, đo lượng mưa.
Trong suốt thời đạinhà Triều Tiên, tơ lụa Triều Tiên được đánh giá cao bởi Trung Quốc và đồ gốm Triều Tiên tráng men xanh có giá trị cao ở Nhật. NgườiTrung Quốc nghĩ rằng đồ sành sứ Triều Tiên có chất lượng cao, nhưng điều này chỉ đúng cho đến hết triều đạiCao Ly. Trong suốt giai đoạn này, Triều Tiên đạt được nhiều tiến bộ trong các nghệ thuật và đồ thủ công truyền thống, chẳng hạn nhưmen sứ trắng,tơ lụa mịn vàgiấy. Cũng trong thời gian này, tàu chiến bọc sắt đầu tiên trên thế giới,Geobukseon (hay "Tàu con rùa"), được phát minh.
Tuy nhiên, sự ngưng trệ bắt đầu xảy ra trong thời gian sau của triều đại Joseon và Triều Tiên trở nên lạc hậu so với phương Tây.
Ngày nay,Đại Hàn Dân Quốc dẫn đầu thế giới với số lượng kết nối mạngInternet tốc độ cao tính trên đầu người. Hàn Quốc cũng là nhà sản xuất lớn các sản phẩm công nghệ cao nhưđiện thoại di động vàmàn ảnh plasma. Hàn Quốc cũng chỉ đứng thứ hai trên thế giới trong việc sử dụng các kỹ thuật tiêu thụ mới, chỉ sauĐài Loan. CHDCND Triều Tiên (hay còn được gọi là Bắc Triều Tiên) tiếp tục sử dụng hầu hết các kỹ thuật từthập niên 1960 vàthập niên 1970.
Trong các sách Trung Hoa cổ, Triều Tiên được nhắc đến như là "Cẩm tú giang sơn" (금수강산,錦繡江山) và "Đông phương lễ nghi chi quốc" (동방예의지국,東方禮儀之國). Trong suốt thế kỉ thứ VII và thứ VIII, buôn bán thương mại đường bộ và đường thủy nối Triều Tiên vớiẢ Rập Xê Út. Xưa nhất là từ năm 845, những thương Ả Rập đề cập Triều Tiên với câu nói "Phía bên kia biển qua khỏiTrung Quốc là một đất nước nhiều đồi núi gọi làTân La (신라,新羅), giàu vàng. Các tín đồHồi giáo từng đặt chân đến đây đã bị đất nước này quyến rũ đến nỗi mà họ ở lại luôn nơi đó và không muốn rời đi."[5]
Theo sử sách Nhật Bản, các học giả Triều Tiên đã giới thiệu kiến thức và kỹ thuật của Trung Quốc, kểchữ Hán và những tác phẩm kinh điển, nhưLuận ngữ, vào Nhật Bản. Vào năm 554, một vương quốc Triều Tiên tên là Bách Tế gửi bác sĩ, chuyên gia dược thảo và làm lịch và thầy tu đến Nhật Bản; và năm 602, một sư Bách Tế tên làKwalluk được gửi đi để đem các sách vềthiên văn học, làmlịch,địa lý vàtôn giáo.
Những hội hè Triều Tiên thường phô diễn nhiều màu sắc sặc sỡ, được gán cho những ảnh hưởng từMông Cổ: đỏ sáng, vàng và xanh thường đánh dấu những nét truyền thống của Triều Tiên.[6] Những màu sắc tươi sáng đôi khi được thể hiện ở trang phục truyền thốnghanbok.
Một đặc điểm của văn hóa Triều Tiên còn có địa vị chính thức là hệ thống tính tuổi với cách tính giống với tuổi mụ của Việt Nam. Trẻ vừa sinh ra được xem là một tuổi, vì người Triều Tiên nghĩ thời kỳ mang thai như là một năm cuộc sống của trẻ, và tuổi tác sẽ tăng vào ngày đầu năm thay vì vào ngày kỉ niệm sinh nhật. Do đó, một người sinh ra ngay trước ngày đầu năm mới chỉ được vài ngày tuổi theo cách tính củaphương Tây, nhưng là hai tuổi tại Triều Tiên. Theo đó, tuổi trên giấy tờ của ngườiTriều Tiên (ít nhất là giữa những người Triều Tiên cùng độ tuổi) sẽ nhiều hơn một hoặc hai năm so với tuổi theo cách tính của phương Tây. Tuy nhiên, cách tính của phương Tây đôi khi được áp dụng trong các khái niệm về tuổi hợp pháp, ví dụ, tuổi hợp pháp để muarượu hoặcthuốc lá tại Triều Tiên là 19 được xác định theo cách tính của phương Tây là 18 tuổi.
Tác phẩmPhật tổ và tám vị bồ tát trên tranh vải từ triều đại nhà Cao Ly vào thế kỷ XIV
Truyền thốngKhổng giáo đã thống trị ý nghĩ của người Triều Tiên, cùng với các đóng góp củaPhật giáo,Đạo giáo vàShaman giáo. Tuy nhiên, từ giữa thế kỉ XXCơ Đốc giáo đã cạnh tranh với Phật giáo để trở thành một ảnh hưởng tôn giáo chính ở Nam Triều Tiên, trong khi đó hoạt động tôn giáo bị áp chế ở Triều Tiên.
Trong suốt chiều dày lịch sử và nền văn hóa Hàn Quốc, bất chấp bị chia rẽ, ảnh hưởng tín ngưỡng truyền thống của Saman giáo Hàn Quốc,Phật giáo Đại thừa,Khổng giáo vàĐạo giáo vẫn là một tôn giáo cơ bản của người dân Hàn Quốc, đóng vai trò như một khía cạnh quan trọng trong nền văn hóa dân tộc. Tất cả các truyền thống này đã cùng tồn tại hòa bình từ hàng trăm năm trước đến nay bất kể xu hướng Âu hóa mạnh mẽ từ phương Tây của quá trình chuyển đổi truyền giáoCơ đốc ở miền Nam[7][8][9] hay áp lực từ chính phủCộng sản Chủ Thể ở miền Bắc.[10][11]
Theo số liệu thống kê đến năm 2005 do chính phủ Hàn Quốc cung cấp, có khoảng 46% của công dân cho biết không theo tôn giáo nào. Người theo đạo Cơ đốc chiếm 29,2% dân số (trong số đó là đạoTin Lành 18,3%,Công giáo 10,9%) và 22,8% là Phật tử.[12]
Tại Hàn Quốc có khoảng 45.000 người bản địa theoHồi giáo (khoảng 0,09% dân số), bổ sung vào con số 100.000 lao động nước ngoài từ các quốc gia Hồi giáo.[13]
Giáo dục
Người Triều Tiên coi trọng học thức và ưu đãi giáo dục và học hỏi các kinh điển Trung Quốc; những đứa bélưỡng ban được giáo dục kỹ bằngchữ Hán[a]. Cho đến thời hiện đại, người Triều Tiên đặt nặng vào địa vị cha truyền con nối. Cho đếnthế kỉ thứ X, "địa vị cốt lõi" của một người đàn ông (xác định bởi thứ bậc của cha và mẹ anh ta) định ra vị trí xã hội của anh ta và vị trí nào trong nhà nước anh ta được chỉ định. Từ thế kỉ thứ X đến hếtthế kỉ XIX, vị trí xã hội của cha và mẹ của anh quyết định các kì thi dân sự, nếu có, anh có thể tham dự nhưng không bảo đảm sẽ có được vị trí đó.
Văn học Triều Tiên được ghi lại trước khitriều đại Triều Tiên kết thúc được gọi là "Cổ điển" hay "Truyền thống". Văn học viết bằng Hán tự ra đời cùng thời điểm khiChữ Hán củaTrung Quốc du nhập vào bán đảo. Vào đầu thế kỷ thứ II trước Công nguyên, các nhà học giả Triều Tiên đã viết thơ theo phong cách cổ điển, phản ánh những tâm lý và trải nghiệm của người Triều Tiên thời gian đó. Văn học cổ điển Triều Tiên có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian truyền thống và những câu chuyện dân gian của bán đảo. Văn học thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ củaNho giáo,Phật giáo vàĐạo giáo.
Văn học hiện đại thường gắn liền với sự phát triển của hệ chữhangul, điều này giúp cho việc đọc viết chữ lúc đầu chỉ dành cho tầng lớpquý tộc sang người dân thường vàphụ nữ. Tuy nhiên, mãi đến nửa sau thế kỷ XIX, hangul mới đạt đến vị trí thống trị trong văn học Triều Tiên, đem lại sự phát triển lớn mạnh cho nền văn học này. Điển hình nhưSinsoseol là một tác phẩm tiểu thuyết được viết bằng hangul.
Chiến tranh Triều Tiên khiến văn học phát triển theo chiều hướng xoay quanh những vết thương và sự hỗn loạn của dân thường trong chiến tranh. Phần lớn các tài liệu sau chiến tranh ở Nam Triều Tiên đều đề cập đến cuộc sống hàng ngày của người dân bình thường và sự đấu tranh với nỗi đau chia cắt quốc gia quốc gia. Một vấn đề phổ biến khác của thời đại là sự sụp đổ của hệ thống giá trị truyền thống Hàn Quốc, khi phía Nam chạy theo sự hiện đại của nền văn hóa phương Tây, còn phía bắc vẫn giữ nguyên những giá trị truyền thống củaVăn hóa Triều Tiên.
Ẩm thực Triều Tiên có lẽ nổi tiếng nhất với mónkim chi, một món ăn sử dụng quá trình lên men đặc biệt để bảo quản một số loại rau, trong đó phổ biến nhất làbắp cải. Đây là một loại thực phẩm lành mạnh vì nó cung cấp cácvitamin vàchất dinh dưỡng cần thiết.Gochujang (một loại nước sốt truyền thống Triều Tiên làm từ ớt đỏ) rất thông dụng, cũng như tươngtiêu (hoặc ớt), là những món điển hình của nền ẩm thực nổi tiếng với vị cay ngon đẳng cấp.
Bulgogi (thịt nướng tẩm sốt, thường làthịt bò),galbi (xương sườn cắt khúc tẩm gia vị nướng) và mónsamgyeopsal (thịt lợn ở phần bụng) đều là những đặc sản từ thịt phổ biến.Cá cũng là một thực phẩm phổ biến, vì nó là loại thịt truyền thống mà người Triều Tiên hay dùng. Bữa ăn thường đi kèm với súp hoặc món hầm, chẳng hạn nhưgalbitang (xương sườn hầm) vàdoenjang jjigae (canh súp đậu lên men). Giữa bàn ăn là đủ loại món ăn phụ gọi làbanchan.
Các món ăn phổ biến khác gồmbibimbap - có nghĩa là "cơm trộn" (cơm trộn với thịt, rau, tương ớt đỏ) vànaengmyeon (mì lạnh). Một món ăn nhanh phổ biến khác làkimbab, gồm cơm trộn với rau và thịt cuộn trong lớprong biển. Tuy ngày càng có nhiều thành phần thức ăn được cuộn trong kimbab nhưng cá dù sống hoặc chín vẫn hiếm khi được sử dụng, có lẽ do nguồn gốc kimbap là một món ăn cầm tay hoặc món ăn nhanh có thể gói lại mang đi, trong khi đó cá có thể nhanh chóng hư hỏng nếu không được đông lạnh.
Mì ăn liền cũng là một loại thức ăn nhẹ rất phổ biến. Người Triều Tiên cũng thích dùng các loại thức ăn từpojangmachas (bán dạo trên đường phố), ở đây người ta có thể muatteokbokki (bánh gạo và bánh cá với nước sốt gochujang cay), khoai tây chiên mực và khoai lang tẩm.Soondae là loại mộtxúc xích làm bằng mì sợi trong suốt và huyết lợn cũng được rất nhiều người ưa thích.
Ngoài ra, một số món ăn nhẹ phổ biến khác bao gồmchocopie, bánh tôm,bbungtigi (bánh gạo giòn) và "nu lung ji" (cơm cháy nhẹ). Có thể ăn sống nu lung ji hoặc đun với nước để tạo ra một món canh. Nu lung ji cũng có thể được dùng như một món ăn nhanh hay món tráng miệng.
Hàn Quốc là nước chủ nhà trongThế vận hội mùa hè 1988 ởSeoul, giúp thúc đẩy kinh tế nước này thông qua tăng cường du lịch và sự công nhận rộng rãi hơn của thế giới. Vào thời điểm đó,Triều Tiên tẩy chay sự kiện đó với lý do là họ không được mời làm nước đồng chủ nhà.
Vào mùa hè năm 2002,Giải vô địch bóng đá thế giới 2002 được tổ chức bởi Hàn Quốc và Nhật Bản trên 10 sân vận động của mỗi nước. Tuy nhiên hai nước Triều Tiên thi đấu như hai đội khác nhau. Đã có vài đề nghị là Triều Tiên nên đứng ra làm chủ nhà cho một hay hai trận, nhưng không có điều gì như thế đã xảy ra. Trong khi Hàn Quốc tự động được vào vòng chung kết vì là nước đồng chủ nhà và đã vào tận bán kết (xếp thứ 4) sau khi chơi rất tốt, Triều Tiên đã không qua được vòng loại khu vực châu Á (thuộc liên đoàn bóng đá châu Á) và không tham dự vòng chung kết.