Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.(tháng 7/2024) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này) |
| Trần Hiến Tông 陳憲宗 | |||||||||||||||||||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Vua Việt Nam | |||||||||||||||||||||||||
| Hoàng đếĐại Việt | |||||||||||||||||||||||||
| Trị vì | 15 tháng 3 năm1329 -11 tháng 6 năm1341 12 năm, 88 ngày ![]() | ||||||||||||||||||||||||
| Thái thượng hoàng | Trần Minh Tông (1329-1357) | ||||||||||||||||||||||||
| Tiền nhiệm | |||||||||||||||||||||||||
| Kế nhiệm | |||||||||||||||||||||||||
| Thông tin chung | |||||||||||||||||||||||||
| Sinh | 17 tháng 5,1319 | ||||||||||||||||||||||||
| Mất | 11 tháng 6, 1341(1341-06-11) (22 tuổi) Quang Triều cung,Thăng Long | ||||||||||||||||||||||||
| An táng | An Lăng (安陵) | ||||||||||||||||||||||||
| Thê thiếp | Hiển Trinh Công chúa | ||||||||||||||||||||||||
| Hậu duệ | 1 công chúa | ||||||||||||||||||||||||
| |||||||||||||||||||||||||
| Triều đại | Nhà Trần | ||||||||||||||||||||||||
| Thân phụ | Trần Minh Tông | ||||||||||||||||||||||||
| Thân mẫu | Minh Từ Hoàng thái phi | ||||||||||||||||||||||||
| Tôn giáo | Phật giáo | ||||||||||||||||||||||||

Trần Hiến Tông (chữ Hán: 陳憲宗 17 tháng 5 năm 1319 – 11 tháng 6 năm 1341) là vịhoàng đế thứ sáu của triều đạinhà Trần tronglịch sử Việt Nam, trị vì trong 13 năm (1329 -1341).
Hiến Tông tuy cai trị trên danh nghĩa nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thái thượng hoàngTrần Minh Tông xử lý. Trong thời gian này, Thượng hoàng dấy binh đi dẹp loạnNgưu Hống ởĐà Giang, đánh quânAi Lao xâm phạm bờ cõi.
Trần Hiến Tông tên húy làTrần Vượng (陳旺),tên ngoại giao làTrần Nhật Phụ (陳日㷆),Trần Đoan Ngọ (陈端午),[1][2] là con trưởng củaTrần Minh Tông, mẹ làMinh Từ Quý phi họ Lê, người Giáp Sơn, là cô củaLê Quý Ly. Tuy là con đầu lòng của Minh Tông nhưng do mẹ làphi tần nên xét về chính danh ông vẫn chỉ là con thứ. Ông từ nhỏ có tên hiệu làThiên Kiến (天建).[3] Ngoài ông, Minh Từ Thái phi còn sinh ra Cung Định vương, tứcTrần Nghệ Tông.
TheoĐại Việt sử ký toàn thư đánh giá, Trần Vượng là một người"tư trời tinh anh và sáng suốt".
Việc Trần Vượng được lập làm Thái tử vốn không hề đơn giản, vì nó tạo một sự mâu thuẫn có hậu quả rất lớn trong nền chính trị họ Trần.
Bấy giờ, vào năm Khai Thái thứ 5 (1328), Trần Minh Tông ở ngôi đã 15 năm, tuổi đã cao mà vẫn chưa lập Thái tử. Cha của Lệ Thánh Hoàng hậu là Huệ Vũ vươngTrần Quốc Chẩn giữ ý định đợi Hoàng hậu có con rồi sẽ lập.Cương Đông Văn Hiến hầu[4] là con (có sách chép là em) của Tá Thánh Thái sưTrần Nhật Duật, do muốn đánh đổ Hoàng hậu để lập Hoàng trưởng tử Vượng, mới đem 100 lạng vàng đút lót cho gia thần của Quốc Chẩn làTrần Phẫu, bảo nó vu cáo Quốc Chẩn âm mưu phản loạn.
Sự việc diễn ra dẫn đến việc Huệ Vũ vương bị ép phảitự sát, có hơn 100 người bị dính vào vụ án này.
Năm Khai Thái thứ 6 (1329), ngày7 tháng 2, Hoàng đế Trần Minh Tông xuống chiếu phong Trần Vượng làmHoàng thái tử. Ngày15 tháng 2, Minh Tông chính thức nhường ngôi, Thái tử Vượng lên làm Hoàng đế, còn Minh Tông trở thànhThái thượng hoàng.
Có giả thiết cho rằng, việc Trần Vượng được lập làm Thái Tử là phần lớn nhờ mưu kế của mẹ là Minh Từ Quý phi đã bày mưu tính kế với Văn Hiến Hầu để Văn Hiến Hầu đút lót Trần Phẫu vu oan cho Trần Quốc Chẩn tội mưu phản.[4]
Trần Hiến Tông lên ngôi, tự xưngTriết Hoàng (哲皇), đặt niên hiệu làKhai Hựu (開佑). Hiến Tông lên ngôi còn nhỏ, quyền hành thực tế ở cả trong tay Thượng hoàng, cho nên tuy có trị vì 13 năm nhưng Trần Hiến Tông không được tự chủ việc gì cả.
Dưới triều Trần Hiến Tông, biên giới phía Bắc và phía Nam tương đối ổn định. Thời gian trị vì của Hiến Tông, nhà Trần không tổ chứckhoa thi nào để chọn nhân tài. Vào năm Đinh Sửu (1337) có xuống chiếu cho các quan trong triều cũng như ngoài các lộ, hàng năm xét những thuộc viên do mình quản lý, người nào siêng năng cẩn thận thì giữ lại, còn người nào không làm được thì truất bỏ.
Từ năm1333 đến năm1338 chỉ trong vòng 6 năm, đã có nhiều thiên tai lớn xảy ra như lụt lội, bão gió, động đất. Vì vậy Trần Hiến Tông hạ lệnh cho các nơi lập kho lương chứa thóc thuế để kịp thời cấp cho dân đói.
Về văn hóa và một số ngành khoa học như thiên văn, lịch pháp, y học vào thời gian này cũng có những thành tựu đáng kể. Dưới triều Trần Hiến Tông có Hậu nghi đài lang, Thái sử cục lệnh làĐặng Lộ người huyện Sơn Minh (Ứng Hòa,Hà Nội) đã chế ra một dụng cụ xét nghiệm khí tượng gọi làLung Linh nghi, khi khảo nghiệm không việc gì là không đúng.
Năm Khai Hựu thứ 13 (1341), ngày11 tháng 6, ông qua đời ở chính tẩm, tạm quàn ởKiến Xương cung, hưởng thọ 22 tuổi.Miếu hiệu làHiến Tông (憲宗),thụy hiệu làThể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí Hiếu Hoàng Đế (體元御極睿聖至孝皇帝). Khoảng 4 năm sau (1344), Hiến Tông mới được an táng vàoAn lăng (安陵).[5]
Sau khi ông qua đời, Thượng hoàng Minh Tông chọn người con thứ củaHiến Từ Hoàng hậu làTrần Hạo (陳暭) lên ngôi, tức làTrần Dụ Tông.