Họ Trâu bò được biết đến trong các mẫuhóa thạch từ TiềnMiocen, khoảng 20Triệu năm trước. Các loài dạng bò sớm nhất, nhưEotragus, là các động vật nhỏ, hơi tương tự nhưlinh dương Gazelle ngày nay và có lẽ đã sống trong môi trường đồng rừng. Số lượng loài họ Trâu bò gia tăng mạnh vào Hậu Miocen, khi nhiều loài thích nghi với môi trường đồng cỏ và thoáng đãng hơn.[4]
Số lượng lớn nhất về số loài hiện tại là họ Trâu bò thuộc vềchâu Phi nhưng họ trâu bò thuộc vềchâu Á vàBắc Mỹ lại ít đa dạng hơn. Người ta cho rằng nhiều loài họ này đã tiến hóa ở châu Á nhưng không thể sống sót do sự săn bắt của các loài người đến từ châu Phi vào cuốithế Pleistocen. Ngược lại, các loài châu Phi có nhiều nghìn hay vài triệu năm để thích nghi với sự phát triển dần dần trong kĩ năng săn bắn của con người. Tuy nhiên, nhiều loài trong họ này được thuần hóa lại có nguồn gốc châu Á (dê,cừu, trâu vàbò Tây Tạng).
Một lượng nhỏ các loài hiện đại trong họ Trâu bò thuộc châu Mỹ là tương đối gần đây theo đườngcầu đất liền Bering, nhưng chúng vẫn đến khu vực này trước khi con người đặt chân tới đây.
Hình dạngsừng khác biệt giữa trâu rừng châu Phi (trên) và trâu nước (dưới)
Trên thế giới có hai nhóm trâu: trâu rừng châu Phi (Cape buffalo) và trâu châu Á, tức trâu nước. Đây là hai loài riêng biệt thuộc chiSyncerus (trâu châu Phi) vàBubalus (trâu châu Á) ở hai vùng địa lý cách biệt.
Về trâu châu Á, các nhà chuyên môn chưa nhất trí về cách sắp xếp phân loài. Có người thì cho là trâu chỉ có một loàiBubalus bubalis với ba phân loài,tiếng Anh gọi là "river buffalo", trâu sông (B. bubalus bubalis) ở Nam Á, "swamp buffalo", trâu đầm (B. bubalis carabanesis) ở Đông Nam Á, và trâu rừng Á châu (B. bubalis arnee). Có người thì cho rằng cả ba là ba loài riêng biệt tuy cận chủng.
Trâu đầm có 48nhiễm sắc thể trong khi trâu sông lại có 50 nhiễm sắc thể và hai loài này khó lai giống, nhưng cũng có trường hợp thế hệ thứ nhất sanh đẻ được. Loài trâu và loài bò thì không thể lai giống được. Thí nghiệm khoa học cho ta biết phôi thai của trâu lai bò không phát triển để trưởng thành được.
Số trâu vào năm 2004. Chấm đỏ=1 triệu; chấm vàng=10 triệu; chấm lục=100 triệu.Hai con trâu đang dìm mình trong một ao nước vào lúc hoàng hôn ở Don Det (Si Phan Don, Lào).
Châu Á là vùng bản địa của loài trâu với 95% tổng số trâu trên thế giới. Khoảng phân nửa số này sống ởẤn Độ. Tính đến năm 1992 Á châu có 141 triệu con trâu. Trâu được nuôi lấy sức cày ruộng, lấy thịt vàsữa. Sữa trâu có lượng mỡ béo cao nhất trong các loại sữa gia súc. Cả hai phân loài trâu nhà có mặt tại Á châu: trâu sông và trâu đầm. Trâu sông sống ở vùng cao nhưNepal còn trâu đầm phổ biến khắp miền nhiệt đới.
Loài trâu sinh sống thành công vì có thể tận dụng thức ăn kém chất dinh dưỡng mà lại có sức sản xuất cao. Về việc đồng áng cày bừa thì trâu kéo cày khỏe hơn bò (Bos taurus) nhất là ở những vùng ruộng sâu nên ở Việt Nam có câu tục ngữ:yếu trâu hơn khỏe bò.
^Cockrill, W. R. (1977).The water buffalo(PDF). Rome: Animal Production and Health Series No. 4. Food and Agriculture Organization of the United Nations.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2015.
^Lau, C. H., Drinkwater, R. D., Yusoff, K., Tan, S. G., Hetzel, D. J. S. and Barker, J. S. F. (1998). Genetic diversity of Asian water buffalo (Bubalus bubalis): mitochondrial DNA D-loop and cytochrome b sequence variation.Animal Genetics 29(4): 253–264.