Bài viết này có một danh sách các nguồn tham khảo, nhưngvẫn chưa đáp ứng khả năng kiểm chứng được bởi thân bài vẫn còn thiếu cácchú thích trong hàng. Hãy giúp cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung các chú thích nguồn cho các nội dung tương ứng.(tháng 10/2023) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Lãnh thổ thời cực thịnh củaĐế quốc La Mã (khoảng năm 117CN) và vùng người nói tiếng Latinh cai trị (bằng màu đỏ sẫm). Trong Đế quốc có nhiều thứ tiếng khác bên cạnh tiếng Latinh, quan trọng nhất làtiếng Hy Lạp.
Bản đồ của cácngôn ngữ Rôman —là hậu thân của tiếng Latinh bình dân— tại châu Âu.
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âmIPA. Nếu không thích hợphỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tựUnicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xemTrợ giúp:IPA.
Tiếng Latinh là một ngôn ngữ có tính đa dạng cao, với ba giới tính riêng biệt, sáu hoặc bảy thể danh từ, năm biến cách, bốn cách chia động từ, sáu thì, ba ngôi, ba thể thức ngữ pháp, hai giọng, hai hoặc bathể động từ và haisố ngữ pháp. Bảng chữ cái Latinh có nguồn gốc từbảng chữ cái Etruscan và Hy Lạp, cuối cùng là từbảng chữ cái Phoenicia.
Nhà nghiên cứu văn khắc biết về khoảng chừng 270 000 bài văn khắc. Nhiều cái trong số văn khắc đó được xuất bản trong loạt nhiều tập tên làCorpus Inscriptionum Latinarum (CIL, "Tập văn Văn khắc tiếng Latinh").
Commentarii de Bello Gallico củaJulius Caesar là một trong những văn bản tiếng Latinh cổ điển nổi tiếng nhất từ thời đại huy hoàng của tiếng Latinh. Văn phong giản dị rất lâu được dạy là tiếng Latinh đô thị điển hình của thời đạiCộng hoà La Mã.
Có những tác phẩm của một vài trăm tác giả viết bằng tiếng Latinh đã sống sót toàn bộ hay một phần, toàn tác phẩm hay từng đoạn, để các nhàvăn hiến học có thể phân tích. Tác phẩm đó vốn được xuất bản qua dạngthủ bản, rồi khi kỹ thuậtin ấn được phát minh thì các tác phẩm đó được nhiều nhà xuất bản in.
Vì ảnh hưởng của chế độ và công nghệLa Mã lên các dân tộc thuộc Đế quốc La Mã nên các dân tộc đó mượn nhiều từ và cụm từ tiếng Latinh trong các lĩnh vực như khoa học, công nghệ, y được, luật... Tác phẩm về y học La Mã, như tác phẩm củaClaudius Galenus, là nguyên nhân người ta luôn sử dụng từ tiếng Latinh hoặc Hy Lạp cổ đại (Latinh hoá) khi sáng tạo thuật ngữ y học mới trong các ngôn ngữ châu Âu hiện đại. Hai lĩnh vực kỹ sư và luật pháp La Mã cũng có ảnh hưởng tương tự lên thuật ngữ khoa học và luật của các ngôn ngữ Tây nói chung.
Trong suốtthế kỷ XVI đếnthế kỷ XVIII các nhà văn Anh đã tạo ra rất nhiều các từ mới từ gốc Latinh và Hy Lạp. Những từ này, được gọi đùa là những từ "sừng đựng mực" (inkhorn) hay "bình mực" (inkpot) — ám chỉ giới văn sĩ và học giả. Nhưng nhiều trong số những từ này chỉ được tác giả dùng một lần và sau đó thì quên hẳn, tuy nhiên cũng còn sót lại một số từ.Imbibe,extrapolate, vàinebriation đều là những ngôn từ kiểu "bình mực" tạo ra từ các từ Latinh hay Hy Lạp.
Sau khiĐế quốc La Mã sụp đổ, tiếng Latinh đã phát triển thànhnhiều ngôn ngữ Rôman. Những thứ tiếng này chỉ dùng để nói trong hàng thế kỷ, trong khi đó tiếng Latinh vẫn được dùng để viết. (Chẳng hạn như tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức củaBồ Đào Nha đến tận năm1296 mới bị thay thế bởitiếng Bồ Đào Nha.)
Các ngôn ngữ Rôman xuất phát từtiếng Latinh bình dân, đây là tiếng nói phổ biến lại có xuất xứ từ một thứ tiếng cổ hơn đã sinh ra chuẩn củatiếng Latinh cổ điển chính thức. Latinh và các tiếng Rôman khác nhau ở chỗ (chẳng hạn như) Rôman có phân biệt trọng âm, trong khi đó tiếng Latinh có phân biệt độ dài các nguyên âm. Trongtiếng Ý vàtiếng Sardegna, có sự phân biệt độ dài các phụ âm và trọng âm,tiếng Tây Ban Nha chỉ phân biệt trọng âm, vàtiếng Pháp ngay cả trọng âm cũng không phân biệt.
Một khác biệt lớn giữa các ngôn ngữ Rôman và tiếng Latinh ở chỗ các tiếng Rôman, ngoại trừtiếng România, không còn dùng cách ở cuối từ ngoại trừ một vài đại từ. Tiếng România vẫn còn năm cách (trong đócách công cụ không còn dùng nữa).
Từ điển tiếng Latinh nhiều tập tại Thư việnĐại học Graz.
Suốt lịch sử châu Âu, sự hiểu biết về các nền văn hoá cổ điển được coi là cần thiết khi muốn tham gia vào giới học giả, còn việc biết tiếng Latinh là một phần thiết yếu của sự hiểu biết đó. Hiện nay sự quan trọng của tiếng Latinh đã giảm xuống nhiều, nhưng vẫn còn có nhiều trường trung học và đại học dạy tiếng Latinh.
Ngày nay, các lớp học tiếng Latinh trong các trường trung học và đại học chủ yếu nhắm đến việc dạy dịch các văn bản bằng tiếng Latinh sang các ngôn ngữ hiện đại, chứ không phải dạy làm công cụ giao tiếp. Vì thế, kỹ năng đọc được đặc biệt nhấn mạnh, trong khi đó kỹ năng nói và nghe chỉ được trình bày sơ qua. Tuy vậy, những người ủng hộ phong tràotiếng Latinh sống tin rằng tiếng Latinh có thể hoặc nên được giảng dạy giống như các ngôn ngữ hiện đại khác; tức là nên dạy cả nói lẫn viết. Các tổ chức dạy tiếng Latinh sống bao gồmVatican vàĐại học Kentucky. Ngoài ra, ở Mỹ có một tổ chức phát triển khá mạnh, chuyên dạy tiếng Latinh cho học sinh phổ thông là National Junior Classical League.
Lịch sử của tiếng Latinh được chia thành một vài giai đoạn lịch sử riêng biệt. Từng giai đoạn thể hiện một vài sự khác biệt tinh vi về từ vựng, cách sử dụng, chính tả, hình thái, cú pháp... Tuy nhiên, vì các nhà khoa học khác nhau sẽ nhấn mạnh các đặc điểm khác nhau nên có thể chia thành các giai đoạn khác nhau hay đặt tên khác cho các giai đoạn. Hơn nữa,tiếng Latinh Giáo hội là tiếng Latinh được các tác giả thuộcGiáo hội Công giáo Rôma sử dụng qua tất cả các giai đoạn lịch sử.
Vào cuối thời đại cộng hoà và đầu thời đế quốc, một dạng tiếng Latinh mới làtiếng Latinh cổ điển nảy sinh, được những nhà hùng biện, nhà thờ, lịch sử và người hay chữ khác sáng tạo. Đây là dạng của thứ tiếng được sử dụng trong các tác phẩm cổ điển nổi tiếng nhất, được dạy trong trường ngữ pháp và hùng biện.
Phân tích ngữ văn của tác phẩm Latinh cổ đại —như các tác phẩm củaPlautus có chứa một vài câu bằng thứ tiếng thông thường— chỉ ra rằng thứ tiếng nói là "tiếng Latinh thông tục" (màCicero gọi làsermo vulgi hay "cách nói của quần chúng bình dân") tồn tại đồng thời cùng với tiếng Latinh cổ điển. Thứ tiếng thông tục này rất ít khi được viết, nên các nhà ngữ văn học chỉ có thể nghiên cứu một vài từ và cụm từ lẻ được tác giả cổ điển nêu lên hay câu đề lên tường.[6]
KhiĐế quốc La Mã sụp đổ thì tiêu chuẩn đào tạo giảm xuống. Người ta bắt đầu viết bằng một dạng của thứ tiếng giống cách nói thông thường hơn, được gọi làtiêng Latinh hậu kỳ. Lúc đó những dân tộc được La Mã hoá ở châu Âu cũng phát triển ngôn ngữ địa phương.[7] Dù các ngôn ngữ địa phương này có khác với nhau (như thứ tiếng nào khi được lan truyền rộng cũng sẽ vậy), nhưng cách nói của những vùng bây giờ là Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha, Ý vẫn giống nhau một cách đáng ngạc nhiên về hệ thống và cách phát triển âm vị, nhờ ảnh hưởng ổn định của nền văn hoá chung là Công giáo Rôma. Ngôn ngữ địa phương của vùng bây giờ làRomânia toả ra nhiều hơn vì bị tách biệt từ ảnh hưởng thống nhất của phần Tây của đế quốc. Khinhà Umayyad Hồi giáo xâm chiếm bán đảo Iberia vào năm 711 thì những ngôn ngữ địa phương khác mới bắt đầu toả ra thật.[8]
Muốn nghiên cứu tiếng Latinh bình dân thì nhà ngôn ngữ học có thể nghiên cứu các từ của các ngôn ngữ Rôman không được sử dụng trong tiếng Latinh cổ điển. Một ví dụ là từ "con ngựa": tiếng Ý làcavallo, Pháp làcheval, Tây Ban Nha làcaballo, Bồ Đào Nha làcavalo, Catalunya làcavall... mà tiếng Latinh cổ điển làequus. Trong tiếng Latinh thì từcaballus là từtiếng lóng được sử dụng một cách thông thường.[9]
Vào cuối thế kỷ IX, tiếng Latinh bình dân tan rã tạo ra nhiều thứ tiếng riêng biệt lànhóm ngôn ngữ Rôman. Lúc đó tài liệu sớm nhất viết bằng ngôn ngữ Rôman xuất hiện. Tuy nhiên, lúc đó người ta bình thường viết bằngtiếng Latinh trung cổ và ít khi viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ là ngôn ngữ Rôman nào đó.
Tiếng Latinh Trung Cổ là tiếng Latinh được sử dụng trong khoảng lịch sử hậu cổ điển mà không có dân tộc nào nói tiếng Latinh một cách thông thường nữa. Tiếng Latinh nói đã phát triển thành nhóm ngôn ngữ Rôman. Tuy nhiên trong giới học thức và giới chính thức thì tiếng Latinh vẫn được sử dụng. Thêm hơn nữa, tiếng Latinh này khuếch trường đến vùng trước đó không lúc nào người ta nói tiếng Latinh, như vùng códân tộc German hoặcSlav. Tiếng Latinh trở thành ngôn ngữ để các dân tộc thuộcĐế quốc La Mã Thần thánh và các quốc gia đồng minh có thể nói với nhau.
Phần lớn các sách được in ở châu Âu vào thế kỷ XV là bằng tiếng Latinh. Những ngôn ngữ bản xứ chỉ có vai trò phụ.[10]
Trong thời đạiPhục Hưng tiếng Latinh trở lại là ngôn ngữ nói nhờ các nhàchủ nghĩa nhân văn sử dụng thứ tiếng này. Họ muốn tiếng Latinh trở nên như xưa, nên họ sản xuất ban điều chỉnh của các tác phẩm cổ điển, tựa vào thủ bản còn sống sót. Qua nỗ lực của họ nên tiếng Latinh trung cổ được "sửa" và trở nên gần tiếng Latinh cổ điển hơn.
Trongthời kỳ cận đại, tiếng Latinh vẫn là ngôn ngữ quan trọng nhất của nền văn hoá châu Âu. Vì vậy nên cho đến tận cuối thế kỷ XVII đa số những cuốn sách và gần như tất cả các văn kiện ngoại giáo được viết bằng tiếng Latinh. Sau thời kỳ cận đại thì đa số các văn kiện ngoại giáo được viết bằngtiếng Pháp hoặc ngôn ngữ bản xứ nào đó khác theo thoả thuận chung.
Các biển báo tại ga tàu điện ngầmWallsend (Anh) sử dụng cả haitiếng Anh lẫn tiếng Latinh, tưởng niệm vai trò làm tiền đồn củađế quốc La Mã của Wallsend.
Tổ chức lớn nhất bây giờ vẫn sử dụng tiếng Latinh một cách chính thức và chuẩn chính thức làGiáo hội Công giáo Rôma. Tiếng Latinh có thể được sử dụng trong nghi thứcthánh lễ, dù bây giờ những ngôn ngữ bản xứ được sử dụng nhiều hơn. Tiếng Latinh là ngôn ngữ chính thức củaToà Thánh, của tờActa Apostolicae Sedis, công báo của Tòa Thánh.Thành Vatican cũng là nơi sở hữu chiếcmáy rút tiền tự động duy nhất trên thế giới có giao diện tiếng Latinh. Các khoá học sau đại học về luật giáo hội tại các trường đại học giáo hoàng được dạy bằng tiếng Latinh, và sinh viên khi viết bài luận thì phải viết bằng tiếng Latinh.
Liên minh châu Âu là một tổ chức đa ngôn ngữ, nên sử dụng tiếng Latinh trong một vài logo. Hình này là biểu tượng củaHội đồng Liên minh châu Âu trước năm 2014, nóiConsilium ("Hội đồng") bằng tiếng Latinh.
Tiếng Latinh cũng được một vài tổ chức đa ngôn ngữ, nhưLiên minh châu Âu sử dụng khi không thể sử dụng tất cả các ngôn ngữ của tổ chức đó. Ví dụ, trên các đồng xu và tem thư củaThuỵ Sĩ vì không có chỗ viết tên quốc gia bằng cả bốn ngôn ngữ chính thức nên tên được viết bằng tiếng Latinh là "Helvetia".
Có một vài phim xảy ra vào thời kỳ xưa, nhưSebastiane vàNỗi khố hình của Chúa, có những diễn viên nói bằng tiếng Latinh để phim hiện thực hơn. Cũng có bài hát có lời bằng tiếng Latinh, như trong operaVua Oedipus củaIgor Stravinsky.
Nhiều tổ chức và đơn vị hành chính ở thế giới phương Tây có khẩu hiệu bằng tiếng Latinh. Ví dụ khẩu hiệu củaCanada là "A mari usque ad mare" ("Từ biển tới biển"), cònđại học Harvard có khẩu hiệu là "Veritas" ("Sự thật").
Thỉnh thoảng có kênh truyền thông sử dụng tiếng Latinh cho người hăng hái về tiếng Latinh. Một vài ví dụ làRadio Bremen tạiĐức vàYle tạiPhần Lan.[11] Cũng có nhiều trang mạng và diễn đàn do người hăng hái về tiếng Latinh viết, nhưWikipedia tiếng Latinh có hơn một trăm nghìn bài bằng tiếng Latinh.
Nhiều trường trung học ở châu Âu và châu Mỹ có lớp học tiếng Latinh.
Vì tiếng Latinh cổ điển được nói trước khi có thiết bị thu âm, nên không thể biết chắc cách phát âm lúc đó là như thế nào. Dù vậy nhưng có nhiều cách để phục dựng nó. Có tư liệu gồm lời giải thích rõ ràng về cách phát âm do tác giả cổ điển viết. Những lỗi chính tả, tư liệu gồm chơi chữ, từ nguyên và chính tả của từ mượn do ngôn ngữ khác mượn từ tiếng Latinh cũng cung cấp nhiều thông tin.[12]
Các phụ âm đôi được phát âm dài hơn. Trong tiếng Việt hiện tượng này chỉ xảy ra giữa hai chữ, như trong "hơn nữa"' mà trong đó có/nn/ đôi, giốngnn trong từ tiếng Latinhannus ("năm, mùa").
Tiếng Latinh cổ điển có tương phản nguyên âm ngắn và dài. Vào thời đại cổ điển, những nguyên âm dài có phẩm chất khác với những nguyên âm ngắn, như có thể xem trong bảng trên đây. Vào thời đại cổ điển đó thì tiếng Latinh cũng có hai nguyên âm/ʏyː/, được sử dụng trong từ mượn từ tiếng Hy Lạp, nhưng nhiều người phát âm hai âm đó như/ɪiː/ hoặc như/ʊuː/.
Tiếng Latinh cổ điển có một vàinguyên âm đôi. Nguyên âm đôi phổ biến nhất là ⟨ae au⟩. Cũng có âm ⟨oe⟩ hiếm có, và những âm ⟨ui eu ei ou⟩ rất ít khi có trong từ thuần Latinh.[14]
Nguyên âm đôi sắp xếp theo âm đầu
Trước
Sau
Đóng
ui/ui̯/
Giữa
ei/ei̯/ eu/eu̯/
oe/oe̯/ ou/ou̯/
Mở
ae/ae̯/ au/au̯/
Tiếng Latinh cổ đại vốn có nhiều nguyên âm đôi hơn, nhưng phần lớn trở thành nguyên âm đơn dài ở đầu thời đại tiếng Latinh cổ điển. Cả hai âm đôi ⟨ai⟩ lẫn sự nối tiếp hai âm đơn ⟨āī⟩ của tiếng Latinh cổ đại trở thành ⟨ae⟩, còn ⟨ei⟩ bình thường trở thành ⟨ī⟩.[15] Hai âm đôi ⟨oi⟩ lẫn ⟨ou⟩ trở thành ⟨ū⟩, ngoại trừ trong một vài từ, mà trong đó ⟨oi⟩ trở thành ⟨oe⟩. Hai cách thay đổi này thỉnh thoảng xảy ra trong hai từ có cùng một gốc — đó là lý do tiếng Latinh cổ điển có đôi nhưpoena "sự trừng phạt" vàpūnīre "trừng phạt".[14]
Trong tiếng Latinh bình dân và trong những ngôn ngữ Rôman thì những âm đôi ⟨ae au oe⟩ hoà vào ⟨e ō ē⟩. Đây cũng là cách phát âm của những người ít học trong thời đại tiếng Latinh cổ điển rồi.[14]
Tiếng Latinh được viết bằng chữ cái Latinh, sinh từ bảng chữ cái Ý cổ đại, vốn có nguồn gốc làbảng chữ cái Hy Lạp mà có nguồn gốc làbảng chữ cái Phoenicia.[16] Bảng chữ cái này sau đó được sử dụng để viết những ngôn ngữ gốc Rôman, Celt, Gécman, Balt, Finn, và nhiều ngôn ngữ Slav. Thêm hơn nữa, bảng chữ cái này được nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới sử dụng, nhưtiếng Việt, nhữngngôn ngữ Nam Đảo, nhiềungôn ngữ nhóm Turk, và đa số các ngôn ngữ ởchâu Phi hạ Sahara,châu Mỹ vàchâu Đại Dương, để nó là bảng chữ cái được sử dụng rộng nhất trên thế giới.
Số chữ cái đã thay đổi một vài lần. Lúc đầu khi mới sinh từ bảng chữ cái Etrusca thì chỉ có 21 chữ cái.[17] Sau đó, chữG được thêm vào để viết âm/ɡ/, mà trước đó âm này được viết bằng chữC; còn chữZ không được sử dụng trong tiếng Latinh nên bị bỏ.[18] Sau đó, hai chữ cáiY vàZ được thêm vào để có thể chuyển chữ hai chữ cáiupsilon vàzeta trong những từ mượn từ tiếng Hy Lạp.[18]
ChữW được sáng tạo vào thế kỷ XI tựa vào chữ ghépVV. Chữ này được sử dụng để viết/w/ trong những ngôn ngữ Gécman — tiếng Latinh không sử dụng chữ này vì sử dụngV. Vào thời Hậu kỳ Trung Cổ chữJ mới được phân biệt với chữI, còn chữU vớiV cũng vậy.[18]
Bảng này liệt kê những chữ cái phụ âm của tiếng Latinh cùng cách phát âm.
Chữ cái phụ âm
Tự vị tiếng Latinh
Âm vị tiếng Latinh
Ví dụ trong tiếng Việt
⟨b⟩
[b]
giống ⟨b⟩ trongba
⟨c⟩, ⟨k⟩
[k]
giống ⟨c, k⟩ trongcả,kể
⟨d⟩
[d]
giống ⟨đ⟩ trongđi
⟨f⟩
[f]
giống ⟨ph⟩ trongphở
⟨g⟩
[ɡ]
giống ⟨g, gh⟩ tronggà,ghế, nhưng làâm tắc thay vìâm xát
[ŋ]
khi trước ⟨n⟩ thì giống ⟨ng⟩ trongmang nó
⟨h⟩
[h]
giống ⟨h⟩ tronghai
⟨i⟩, ⟨j⟩
[j]
khi ở đầu âm tiết thì giống ⟨gi⟩ tronggià bằng giọng miền nam Việt Nam
[jj]
khi ở giữa hai nguyên âm thì giống ⟨-i gi-⟩ trongtôi già bằng giọng miền nam Việt Nam
⟨l⟩
[l]
giống ⟨l⟩ tronglà
⟨m⟩
[m]
giống ⟨m⟩ trongmà
⟨n⟩
[n]
giống ⟨n⟩ trongnó
[ŋ]
khi trước ⟨c⟩, ⟨x⟩, ⟨g⟩ thì giống ⟨ng⟩ trongcàng có
⟨p⟩
[p]
giống ⟨p⟩ trongtập
⟨qu⟩
[kʷ]
giống ⟨qu⟩ trongquá bằng giọng miền bắc Việt Nam
⟨r⟩
[r]
giống ⟨r⟩ trongra nhưng được rung
⟨s⟩
[s]
giống ⟨x⟩ trongxa
⟨t⟩
[t]
giống ⟨t⟩ trongta
⟨v⟩, ⟨u⟩
[w]
giống ⟨u, o⟩ trongsuy,xoá
⟨x⟩
[ks]
bằng ⟨c⟩ + ⟨s⟩, giống ⟨c x⟩ trongtắc xi
⟨z⟩
[z]
giống ⟨d⟩ trongda bằng giọng miền bắc Việt Nam
Trong bảng dưới này có các nguyên âm của tiếng Latinh.
Chữ cái nguyên âm
Tự vị tiếng Latinh
Âm vị tiếng Latinh
Ví dụ trong tiếng Việt
⟨a⟩
[a]
giống ⟨ă⟩ trongăn
[aː]
giống ⟨a⟩ trongan
⟨e⟩
[ɛ]
giống ⟨e⟩ trongnghe, nhưng phát âm ngắn hơn
[eː]
giống ⟨ê⟩ trongvề, nhưng phát âm dài hơn
⟨i⟩
[ɪ]
giống ⟨i⟩ trongtí, nhưng phát âm ngắn hơn
[iː]
giống ⟨i⟩ trongtí, nhưng phát âm dài hơn
⟨o⟩
[ɔ]
giống ⟨o⟩ trongcó, nhưng phát âm ngắn hơn
[oː]
giống ⟨ô⟩ trongcô, nhưng phát âm dài hơn
⟨u⟩
[ʊ]
giống ⟨u⟩ trongtủ, nhưng phát âm ngắn hơn
[uː]
giống ⟨u⟩ trongtủ, nhưng phát âm dài hơn
⟨y⟩
[ʏ]
nhiều người phát âm như ⟨u⟩ hoặc ⟨i⟩ ngắn, nhưng phát âm như ⟨ü⟩ trongStück của tiếng Đức chuẩn hơn
[yː]
nhiều người phát âm như ⟨u⟩ hoặc ⟨i⟩ dài, nhưng phát âm như ⟨ü⟩ trongfrüh của tiếng Đức chuẩn hơn
Những nguyên âm đôi được viết bằng hai chữ cái nguyên âm, ví dụ như /ae̯/ được viết ⟨ae⟩ hoặc ⟨æ⟩... Tuy nhiên, thỉnh thoảng những chữ ghép vậy không phải là nguyên âm đôi mà là hai nguyên âm riêng, như trongaēnus[aˈeː.nʊs] "bằng đồng".
Bìa khắc này tạiHerculaneum từ thế kỷ I CN có sử dụng dấu sóng (cực kỳ mảnh) và chữI dài hơn:avgvstó•sacr• / a•a•lv́ciꟾ•a•fꟾliꟾ•men• / procvlvs•et•iv́liánvs• / p • s • / dédicátióne•decvriónibvs•et• / avgvstálibvs•cénam•dedérvnt.
Tiếng Latinh cổ điển không sử dụngdấu câu, không phân biệt chữ hoa với chữ thường,[19] và không có khoảng cách giữa các từ.
Nhiều khidấu sóng (tiếng Latinh:apex, giống dấu sắc) được sử dụng trên những nguyên âm dài ⟨Á É Ó V́ Ý⟩. Nguyên âm/iː/ dài bình thường được viết bằng chữI cao hơn ⟨ꟾ⟩ (tiếng Latinh:i longa, tạm dịch: "i dài"). Trong sách sản xuất vào thời hiện đại thì những nguyên âm dài bình thường được viết bằng dấu gạch ngang ở trên: ⟨ā ē ī ō ū⟩, còn nguyên âm ngắn dù bình thường không có dấu nhưng để phân biệt một vài đôi từ nên sẽ códấu trăng: ⟨ă ĕ ĭ ŏ ŭ⟩.
Thỉnh thoảng dấu chấm giữa (tiếng Latinh:interpunctus) được sử dụng để cách từ.
Ví dụ, câu đầu tiên trong bài thơ thứ ba củaCatullus vốn được viết như vậy:
LV́GÉTEÓVENERÉSCVPꟾDINÉSQVE (tạm dịch: "Hãy than khóc, những ngườiVenus vàCupido ơi")
hoặc với dấu chấm giữa:
LV́GÉTE•Ó•VENERÉS•CVPꟾDINÉSQVE.
Trong ấn bản hiện đại thì người ta bình thường viết như vậy:
Bản sao tựa và nhữngbảng Vindolanda có chữ thảo La Mã cổ đại
Chữ thảo La Mã cổ đại (tiếng Latinh:antīqua cursīva rōmāna) có mặt trên nhiều tấm bảng sáp được đào ra ở nhiều chỗ, như gần thành trì. Nhiều tầm như vậy được tìm thấy tạiVindolanda gầnTrường thành Hadrianus trênĐảo Anh. Đáng ngạc nhiên là phần lớn của các tấm bảng tại Vindolanda có khoảng cách giữa các từ, mà làm như vậy rất hiếm có trong những câu khắc từ thời đại đó.
Thỉnh thoảng người ta đã viết tiếng Latinh bằng chữ khác:
Ghim cài Praeneste là một cái ghim cài áo từ thế kỷ VII TCN có câu viết bằng tiếng Latinh cổ đại sử dụng bảng chữ cái Etrusca.
Ván sau củaHộp tráp của Franks từ đầu thế kỷ VIII có câu khắc luân phiên từtiếng Anh cổ bằngchữ rune sang tiếng Latinh bằng chữ Latinh rồi sang tiếng Latinh bằng chữ rune.
Vì tiếng Latinh sử dụng cách và chia động từ, nên nhiều khi một cụm từ mà tiếng Việt sử dụng nhiều từ thì trong tiếng Latinh lại chỉ là một từ. Một ví dụ là:
amābit
amā-bi-t
yêu-sẽ-người_đó
người đó sẽ yêu
Trong ví dụ này, từ tiếng Việt "sẽ" trong tiếng Latinh là hậu tố-bi- được đặt sau gốc từamā-, cònchủ ngữ của động từ ("người đó") là hậu tố-t. Tuy nhiên, nhiều khi không thể chia từ thành hậu tố không một cách rõ như thế, ví dụ như trongamō, có nghĩa là "tôi yêu". Trong dạng này, gốc từ vẫn làamā-, còn hậu tố của ngôi thứ nhất số đơn thì hiện tại là-ō.
Những danh từ tiếng Latinh được chia thành ba giống: đực, cái, trung. Khi có tính từ đi kèm với một danh từ nào đó thì tính từ đó phải biến thể để phù hợp với giống của danh từ này.
Từng danh từ có nhiều dạng, tuỳ số vàcách. Có hai số: số ít và số nhiều. Có bảy cách chỉ vai trò của từ trong câu, để thứ tự từ không quan trọng như trong tiếng Việt.
Cách chủ ngữ: dùng làmchủ ngữ của câu hoặc làm vị ngữ của hệ từ. Ví dụ: "Người con gái đã chạy." —Puella cucurrit.
Cách sở hữu: dùng khi danh từ là người sở hữu của một đồ nào đó, như ví dụ "chủcủa nô lệ" —dominusservī, hoặc khi danh từ chỉ bộ phận, định lượng... như trong ví dụ "Ly đầyrượu vang." —Poculum plēnumvīnī est.
Cách nhận (hay còn gọi làcách cho,cách gián bổ...): dùng làm bổ ngữ gián tiếp của động từ và với một vài giới từ. Ví dụ: "Nhà buôn trao áostolacho người phụ nữ." —Mercātorfēminae stolam trādit.
Cách đổi (hay còn gọi làcách trực bổ): dùng làm bổ ngữ trực tiếp của động từ và sau những giới từ chỉ hướng đi. Ví dụ: "Người đàn ông giếtchàng trai." —Homō necāvitpuerum.
Cách tách (hay còn gọi làcách công cụ): thể hiện tách biệt, nguồn gốc, nguyên nhân... Ví dụ: "Bạn đã đi dạo cùngchàng trai." —Cumpuerō ambulāvistī.
Cách xưng hô: dùng để gọi người hay vật. Phần lớn các danh từ không phân biệt cách xưng hô với cáchchủ ngữ; chỉ có những từ thuộc cách biến thể thứ hai có đuôi là-us sẽ có-e trong cách xưng hô số ít, còn nếu đuôi là-ius thì cách xưng hô số ít sẽ có-ī. Ví dụ: ""Chủ ơi!" nô lệ gọi." —"Domine!" clāmāvit servus.
Cách vị trí: dùng để diễn tả vị trí. Cách này không được sử dụng nhiều như các cách khác và bình thường chỉ được dùng với tên hồ, tỉnh, hành, từ chỉ về nhà, đất, quê... Ví dụ: "ở nhà" —domī.
Những hậu tố có dạng nào thì tuỳ vào danh từ. Có thể chia các danh từ tiếng Latinh thành năm lớp theo cách biến thể, rồi trong từng lớp cách biết thể thì những danh từ trong đó có hậu tố giống nhau. Cũng có một vài từ không thể chia vào lớp nào, nên đó là từ bất quy tắc. Bảng này chỉ cách chia danh từrosa ("hoa hồng"):
Trong tiếng Latinh, những tính từ phải hợp về cách, số và giống với danh từ. Có hai lớp biến thể: một lớp giống lớp biến thể thứ nhất và thứ hai của các danh từ, còn lớp khác giống lớp biến thể thứ ba của các danh từ. Ví dụ, từmortuus, mortua, mortuum ("đã chết", giống đực/cái/trung) được biến thể như danh từ thuộc cách biến thể thứ nhất khi giống cái, như danh từ thuộc cách biến thể thứ hai giống đực khi giống đực, còn như danh từ thuộc cách biến thế thứ hai giống trung khi giống trung.
Những tính từ cũng có dạng cấp so sánh và dạng cao cấp. Ví dụ như từfōrmōsus, fōrmōsa, fōrmōsum ("đẹp", giống đực/cái/trung) có dạngfōrmōsior, fōrmōsius ("đẹp hơn", giống đực và giống cái đều là bằng nhau) vàfōrmōsissimus, fōrmōsissima, fōrmōsissimum ("đẹp nhất").
Những động từ có nhiều dạng phân từ được biến thể và sử dụng giống như tính từ.
Các động từ trong tiếng Latinh có sáuthì (hiện tại hoàn thành, hiện tại chưa hoàn thành, quá khứ hoàn thành, quá khứ chưa hoàn thành, tương lai hoàn thành, tương lai chưa hoàn thành), batrạng (trình bày, mệnh lệnh, cầu khẩn, cùng với dạngvô định,phân từ, danh động từ, động danh từ), bangôi (nhất, hai, ba), hai số (đơn, nhiều), haithể (chủ động, bị động) và bathức (hoàn thành, chưa hoàn thành, trạng thái).
Bảng này chứa một vài dạng của động từamō ("yêu") làm ví dụ:
Vì tiếng Latinh là mộtngôn ngữ gốc Ý, nên phần lớn từ vựng của nó có gốc Ý, và vốn có gốc trongngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy. Tuy nhiên, vì người La Mã tiếp xúc một cách sâu sát với dân tộcEtrusca nên không chỉ lấy bảng chữ cái Etrusca để thích nghi làm bảng chữ cái của mình nhưng cũng mượn nhiều từ từtiếng Etrusca sang tiếng Latinh. Hai ví dụ làpersōna ("mặt nạ") vàhistriō ("diễn viên").[20] Tiếng Latinh cũng mượn từ vựng từtiếng Osca, một ngôn ngữ gốc Ý khác.
Sau khi xâm chiếm đượcTaranto (năm 272 trướcCông nguyên) dân tộc La Mã bắt đầu "Hy Lạp hoá": họ lấy đặc trưng của nền văn hoá Hy Lạp để sáp nhập vào nền văn hoá của mình. Khi làm vậy thì người La Mã cũng mượn nhiều từ từ tiếng Hy Lạp như:camera ("phòng có trần vòm"),symbolum ("ký hiệu"),balineum ("nhà tắm")...[20] Vì quá trình "Hy Lạp hoá" này nên chữY vàZ được thêm vào bảng chữ cái để có thể viết những âm vị của tiếng Hy Lạp.[21] Những người La Mã cũng lấynghệ thuật,y học,khoa học,triết học... của Hy Lạp mang về bán đảo Ý. Kết quả là nhiều thuật ngữ khoa học và triết học trong tiếng Latinh là từ mượn từ tiếng Hy Lạp, hoặc là từ thuần Latinh với nghĩa mở rộng ra theo gương của tiếng Hy Lạp.[22]
Vì đế quốc La Mã bành trướng rồi lập liên hệ kinh doanh với những bộ lạc châu Âu ngoài đế quốc, nên tiếng Latinh mượn một vài từ từ những ngôn ngữ Trung Âu như: từbeber ("hải ly") có gốcGerman và từbrācae ("quần") có gốcCelt.[22]
Những ngôn ngữ địa phương của tiếng Latinh chịu ảnh hưởng của những ngôn ngữ khác có trong vùng. Các ngôn ngữ địa phương này sau đó trở thành những ngôn ngữ Rôman.
KhiKitô giáo đã được đưa vào xã hội La Mã thì tiếng Latinh nhận từ vựng liên quan đến Kitô giáo. Từ vựng đó đôi khi là từ mượn từ tiếng Hy Lạp hoặctiếng Do Thái, đôi khi là từ mới sáng tạo từ từ vựng tiếng Latinh.[23]
Vào thời Trung cổ tiếng Latinh không ngừng mượn từ của những ngôn ngữ xung quanh, lúc đó gồmtiếng Anh cổ và những ngôn ngữ German khác.
Qua các thời đại, những người nói tiếng Latinh không ngừng sáng tạo từ mới qua hai quá trình thêmphụ tố và tạotừ phức.[24] Ví dụ, tính từomnipotēns ("có quyền vô hạn") được sáng tạo từ tính từomnis ("cả, mỗi") và tính từpotēns ("hùng mạnh"). Sử dụng quá trình này cũng có thể thay đổi từ loại, ví dụ như lấy động từ tạo danh từ vân vân.[25]
^Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin, biên tập (2013)."Latin".Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
^Norberg, Dag; Johnson, Rand H, Translator (2004) [1980]. "Latin at the End of the Imperial Age".Manuel pratique de latin médiéval. University of Michigan.Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2015.{{Chú thích sách}}:|first2= có tên chung (trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
Allen, William Sidney (2004).Vox Latina – a Guide to the Pronunciation of Classical Latin (bằng tiếng Anh) (ấn bản thứ 2). Cambridge: Cambridge University Press.ISBN0-521-22049-1.
Tham khảo ngôn ngữLưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2005 tạiWayback Machine Từ điển xuyên ngữ có công cụ tìm kiếm riêng. Chuyển dịch giữa Latinh và tiếng Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha.