Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

The Stone Roses

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
The Stone Roses
The Stone Roses trong buổi hòa nhạc ở Milan vào 2012.
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánManchester,Anh
Thể loại
Năm hoạt động
  • 1983–1996
  • 2011–hiện tại
Hãng đĩa
Cựu thành viên
Websitethestoneroses.org

The Stone Roses là một ban nhạcrockngười Anh thành lập tạiManchester vào năm 1983. The Stone Roses là một trong những nhóm nhạc đi đầu của trào lưuMadchester vào những năm 1980 - 1990; đội hình nhóm gồm cóIan Brown, cây guitarJohn Squire, cây bassMani, tay trốngReni. Ban nhạc phát hànhalbum phòng thu đầu taytrùng tên nhóm vào năm 1989. Album là một thành công đột phá với ban nhạc và nhận được rất nhiều lời khen ngợi, các nhà phê bình xem nó là một trong những album nhạc Anh vĩ đại nhất từng được thực hiện. Ngay thời điểm đó, The Stone Roses quyết định kinh doanh thành công của họ bằng việc ký hợp đồng với một hãng đĩa lớn. Hãng đĩa mà nhóm ký ở thời điểm đó làSilvertone không để ban nhạc chấm dứt hợp đồng, do đó dẫn đến một cuộc tranh tụng pháp lý kéo dài, lên đến đỉnh điểm khi ban nhạc ký hợp đồng vớiGeffen Records. Sau đó The Stone Roses đã phát hành album thứ hai với tựa đềSecond Coming, đón nhận những đánh giá trái chiều vào năm 1994.[2] Nhóm tan rã sau vài lần thay đổi nhân sự diễn ra suốt chuyến lưu diễn, bắt đầu khi Reni là người rời đi đầu tiên vào đầu năm 1995, kế tiếp theo sau là Spire vào tháng 4 năm 1996. Brown và Mani giải thể phần còn lại của ban nhạc vào tháng 10 năm 1996 sau khi họ trình diễn tại Nhạc hội Reading.

Sau nhiều đồn đoán mạnh mẽ từ giới truyền thông, The Stone Roses đã kêu gọi một buổi họp báo tổ chức vào ngày 18 tháng 10 năm 2011 để thông báo rằng ban nhạc đã tái hợp và sẽ tổ chức mộtchuyến lưu diễn toàn cầu vào năm 2012, bao gồm ba chương trình tổ chức ở quê nhàHeaton Park, Manchester. Những kế hoạch thu âm album thứ ba trong tương lai cũng dần được nhen nhóm. Vào tháng 6 năm 2012, Chris Coghill – biên kịch củabộ phim điện ảnh mới lấy bối cảnh trong chương trình Spike Island của Stone Roses vào năm 1990 – tiết lộ rằng ban nhạc "có ít nhất ba hoặc bốn bản nhạc mới đã được ghi". Tháng 6 năm 2013, một bộ phim tài liệu về sự tái hợp của ban nhạc có tựaThe Stone Roses: Made of Stone doShane Meadows đạo diễn đã ra mắt tại các rạp. Năm 2016, The Stone Roses phát hành sản phẩm đầu tiên trong hai thập niên. Các thành viên của nhóm tiếp tục lưu diễn đến tháng 6 năm 2017.

Lịch sử hoạt động

[sửa |sửa mã nguồn]

Thành lập (1983–1984)

[sửa |sửa mã nguồn]

Ian Brown (thời điểm chơi bass) và cầm thủ guitarJohn Squire quen biết nhau khi còn học ởtrường nam sinh Altrincham Grammar, họ đã thành lập một ban nhạc hoạt động ngắn hạn, lấy cảm hứng từClash có tên là The Patrol vào năm 1980 cùng với ca sĩ kiêm chơi guitar Andy Couzens và tay trốngSimon Wolstencroft.[3][4] Họ chơi vài buổi diễn vào năm 1980 và ghi thành mộttệp demo, nhưng đến cuối năm đó nhóm đã quyết định thay đổi hướng hoạt động.[5] Brown thể hiện tiềm năng thành giọng ca chính trong chương trình cuối của Patrol khi hát bài "Block Buster!" củaSweet trong người bạn kiêm kĩ thuật viên của ban nhạc là Pete Garner đứng chơi bass còn Couzens muốn tập trung đánh guitar.[5] Ban nhạc đánh mất sự nhiệt huyết vào năm 1981, Brown bán chiếc guitar bass của mình để mua chiếc xe đẩy hai bánh, còn Wolstencroft gia nhập ban nhạc củaJohnny MarrAndy Rourke mang tênFreak Party – tiền thân củaSmiths.[6] Squire tiếp tục tập guitar[4] trong khi làmhọa sĩ diễn hoạt cho hãngCosgrove Hall, còn Brown làm chủ một hộp đêm nhạcNorthern soul tạiSalford. Squire và Couzens khởi động một ban nhạc mới có tên là The Fireside Chaps với cây bass Gary "Mani" Mounfield, tiếp đó họ tuyển một ca sĩ là Kaiser và tay trống Chris Goodwin, đồng thời đổi tên nhóm thành The Waterfront (dựa theo phimOn the Waterfront); âm thanh của nhóm chịu ảnh hưởng bởi những nhóm nhạc vào thập niên 1960 và những ban nhạc đương đại nhưOrange Juice.[4][7] Goodwin đã rời đi trước khi ban nhạc thu đĩa demo đầu tiên và ngay sau khi phát hành nó, Squire đã đề nghị Brown gia nhập làm ca sĩ. Trong một buổi gặp mặtGeno Washington tại một bữa tiệc tổ chức tại căn hộ của Brown ở Hulme, Washington nói với Brown rằng anh sẽ trở thành một ngôi sao và nên làm ca sĩ, rồi ông thuyết phục Brown chấp nhận đề nghị của Squire.[8] Brown gia nhập The Waterfront vào cuối năm 1983 sau một thời gian chia sẻ phần hát với Kaiser.[9]

Chuyến lưu diễn và những sản phẩm đầu tiên (1985–1988)

[sửa |sửa mã nguồn]

Ban nhạc chơi buổinhạc sống chính đầu tiên vào ngày 4 tháng 8 năm 1985 với sự hỗ trợ từLast Party, sau khi nghệ sĩ gốc làMercenary Skank bỏ buổi diễn.[10] Họ đã có buổi thu nháp đầu tiên với Hannett vào tháng 1 năm 1985 tại Strawberry Studios ởStockport nhằm ghi các bản nhạc cho mộtđĩa đơn đầu tay và một album.[11] Những buổi thu nháp kế tiếp diễn ra vào tháng 3, tại đó họ thu đĩa đơn đầu taymặt A mang tên "So Young"/"Tell Me".[12] Ban nhạc đã được mời chơi một buổi thu nháp trực tiếp trên đàiPiccadilly Radio, nơi họ cho ra mắt một ca khúc mới, "I Wanna be Adored".[13] Đến lúc này nhóm đã bắt đầu gây dựng tiếng tăm đáng kể ở Manchester, và buổi diễn nhạc sống đầu tiên tạiPreston, miền Bắc Anh đã thu hút một lượng lớn khán giả, nhưng rồi biến thành một mớ hỗn độn sau những vấn đề kĩ thuật và xích mích giữa các thành viên về việc thanh toán hóa đơn.[14]

The Roses khởi động một chuyến lưu diễn ở Thụy Điển vào tháng 4, với buổi nhạc sống đầu tiên tại Manchester diễn ra sau khi nhóm trở về tại International 1; nơi đây được điều hành bởi các nhà quản lý tương lai của Stone Roses là Matthew Cummings và Gareth Evans.[15] Một buổi trình diễn tại bữa tiệc ở kho chứa vào ngày 20 tháng 7 đã giúp gây dựng mối quan tâm trong ban nhạc, và vào tháng 8 họ trở lại phòng thu để ghi album đầu tay.[16] Không hài lòng với kết quả cũng như việc thay đổi âm thanh của nhóm, dự án trên đã bị hoãn (sau này nó được phát hành dưới dạng albumGarage Flower).[4] Tuy nhiên đĩa đơn đầu tay là "So Young"/"Tell Me" vẫn ra mắt vào tháng 9.

Album đầu tay và thành công đột phá (1989–1991)

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:The Stone Roses (album)

Vào năm 1988 và đầu 1989, the Stone Roses thu album đầu tay tại Battery Studios và Konk Studios ở Luân Đôn vàRockfield Studios ở xứ Wales, với Leckie chịu trách nhiệm sản xuất.[4] Đĩa đơn đầu tay cho Silverstone, "Elephant Stone" tạo được ít tiếng vang và đầu năm 1989 những buổi biểu diễn của ban nhạc vẫn chỉ thu hút một số ít khán giả.[17] Ca khúc "Made of Stone" đã đón nhận sự chú ý nhiều hơn từ giới báo chí và được biên tập viênRichard Skinner lựa chọn để phát sóng trên show đêm muộn Radio One của ông, sau đó giành hạng 90 trênUK Singles Chart.The Stone Roses ra mắt vào tháng 4/[18][19] tháng 5 năm 1989,[20][21] và lúc đầu đón nhận đa số nhận xét tích cực,[20] rồi lọt vàoUK Albums Chart ở vị trí số 32 giữa tháng 5, vị trí cao nhất mà album giành được trong năm.[22][23] Đĩa đơn kế tiếp, "She Bangs the Drums" giúp nhóm lọt vào tốp 40 hit ở Anh bên cạnh vị trí quán quân trênUK Independent Chart, và đến lúc này họ mới nhận được sự quan tâm nhiều hơn từ cánh báo chí và bán cháy vé cho các show trên khắp cả nước.[24][25] Ban nhạc trở nên nổi tiếng rộng rãi bởi một sự cố hi hữu: một phút trong buổi biểu diễn trực tiếp trên truyền hình của ban nhạc, nằm trong chương trìnhThe Late Show của đàiBBC, điện bị cúp khiến Ian Brown liên tục văng lời phàn nàn "Lũ nghiệp dư!" vào người dẫn chương trìnhTracey MacLeod.[26] Cuối năm 1989, ban nhạc cho ra đĩa đơn kép mặt A "Fools Gold/What the World Is Waiting For" - đĩa này giành hạng 8 trênUK Singles Chart vào tháng 11.[27] Dù dự kiến ra mắt ở mặt B, "Fools Gold" nhanh chóng trở thành ca khúc nổi tiếng nhất của the Roses và màn thể hiện bài hát trên chương trìnhTop of the Pops càng xây chắc danh tiếng của nhóm.[28] "Fools Gold" giúp nhóm có được hit lọt top 10 đầu tiên và album thăng lên vị trí số 19 trên bảng xếp hạng vào đầu năm kế tiếp.

Chúng tôi là nhóm nhạc quan trọng nhất trên thế giới, bởi vì chúng tôi sở hữu những ca khúc hay nhất và thậm chí còn chưa bắt đầu thể hiện tài năng của mình.

– Ian Brown phát biểu với tờNME vào tháng 12 năm 1989[29]

Những buổi diễn chính lớn nhất của the Roses vào năm 1989 có tới 4000 khán giả tạiEmpress Ballroom của Blackpool vào thứ 7, ngày 12 tháng 8[30] và 7000 khán giả tạiCung thể thao Alexandra vào thứ 7, ngày 18 tháng 11.[31] Những buổi diễn này đều phát thành thành một live video vào năm 1991 và sau đó đăng tải trên Youtube.

Ban nhạc thắng 4 giải do độc giả của tờNME bình chọn trong năm đó: Ban nhạc của năm, Ban nhạc mới xuất sắc nhất, Đĩa đơn của năm (cho "Fools Gold") và Album của năm (cho album đầu tay của nhóm).[32]The Stone Roses cho đến giờ được coi là một trong những album nhạc Anh vĩ đại nhất,[33] dù cho nhóm không vừa ý với âm thanh trong album; Squire miêu tả nó là "sướt mướt" và "không đủ sức nặng".[34]

Phong cách nghệ thuật và ảnh hưởng

[sửa |sửa mã nguồn]

Những nguồn ảnh hưởng của The Stone Roses gồm cógarage rock,EDM,Krautrock,Northern soul,punk rock,reggae,soul và các nghệ sĩ nhưthe Beatles,[35][36]the Rolling Stones,Simon and Garfunkel,the Smiths,the Byrds,[37]Jimi Hendrix,[37]Led Zeppelin,[38]the Jesus and Mary Chain,Sex Pistolsthe Clash.[39] Ban nhạc là một phần của trào lưuMadchester, một làn sóng nhạc kết hợpalternative rock,psychedelic rockEDM. Nhóm còn tiếp tục tạo ảnh hưởng lên các nghệ sĩ khác, tiêu biểu nhất làOasis; cây guitar-sáng tác chính của Oasis,Noel Gallagher từng nói trong một buổi phỏng vấn rằng "khi tôi nghe 'Sally Cinnamon' lần đầu, tôi đã biết định mệnh của mình là gì".[40] Em trai của Gallagher và giọng ca chính của OasisLiam thì cho biết họ là ban nhạc đầu tiên mà anh xem trực tiếp và cách họ biểu diễn đã tác động đến anh để trở thành một ca sĩ.

Thành viên

[sửa |sửa mã nguồn]

Cựu thành viên

  • Ian Brown – hát chính, bộ gõ, bongo(1983–1996, 2011–2017)
  • John Squire – guitar, hát đệm(1983–1996, 2011–2017)
  • Mani(Gary Mounfield) – guitar bass(1987–1996, 2011–2017)
  • Reni(Alan Wren) – trống, bộ gõ, hát đệm(1984–1995, 2011–2017)
  • Pete Garner – bass(1983–1987)
  • Andy Couzens – guitar rhythm, hát đệm(1983–1986)
  • Simon Wolstencroft – trống(1983–1984)
  • Rob Hampson – bass(1987)
  • Cressa – múa(1989)
  • Robbie Maddix – trống, hát đệm(1995–1996)
  • Nigel Ippinson – keyboard, hát đệm(1995–1996)
  • Aziz Ibrahim – guitar(1996)

Dòng hoạt động

[sửa |sửa mã nguồn]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa |sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Kaufman, Gil (ngày 31 tháng 1 năm 1998)."Ex-Stone Roses Singer Not Just Monkeying Around On New LP".MTV.Viacom.Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2019.
  2. ^Johnson, Johnny (tháng 2 năm 1995)."Coming Out".Vox. tr. 14–19.Bản gốc(print) lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2011.
  3. ^Robb, p. 40
  4. ^abcdeTaylor (2004)
  5. ^abRobb, p. 46
  6. ^Robb, p. 48
  7. ^Robb, p. 65, 68
  8. ^Robb, p. 70–71
  9. ^Robb, p. 71
  10. ^Robb, p. 108
  11. ^Robb, p. 103
  12. ^Robb, p. 110
  13. ^Robb, p. 113
  14. ^Robb, p. 115–7
  15. ^Robb, p. 122
  16. ^Robb, p. 128
  17. ^Robb, p. 195
  18. ^"The Stone Roses".Melody Maker. ngày 9 tháng 12 năm 1989.Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2002. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.When The Stone Roses delivered their debut LP at the end of April, all hell was let loose.
  19. ^Wilde, Jon (tháng 7 năm 1990)."The Stone Roses: Are these men really the future of rock and roll?"(print).Sky magazine. tr. 98. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2011.
  20. ^abStanley, Bob (1990)."The Stone Roses special supplement"(PDF).Melody Maker. tr. 15.Bản gốc(print) lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2011.
  21. ^Lawrence, Sara (ngày 14 tháng 7 năm 1990)."The Ian Brown Interview, part one".Number One. tr. 9. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2011.
  22. ^Robb, p. 207
  23. ^"the stone roses | full Official Chart History | Official Charts Company".Officialcharts.com.
  24. ^Robb, p. 218
  25. ^Lazell, Barry (1998)Indie Hits 1980–1989, Cherry Red Books,ISBN0-9517206-9-4, p. 218
  26. ^Sherwin, Adam (ngày 17 tháng 3 năm 2008)."Sooner rather than Later BBC will risk Jools stars going live".The Times. London. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2019.{{Chú thích báo}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  27. ^Roberts, David, ed. (2006).British Hit Singles & Albums (19th ed.).HiT Entertainment. p. 534.ISBN1-904994-10-5.
  28. ^"STONE ROSES BIOGRAPHY". sing365.com.Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2009.
  29. ^Tobler, John (1992).NME Rock 'N' Roll Years (ấn bản thứ 1). London: Reed International Books Ltd. tr. 463. CN 5585.
  30. ^"Blackpool 12 August 1989 the Stone Roses fansite". thestoneroses.co.uk. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  31. ^"the 6 classic Stone Roses gigs that defined the band". louderthanwar.com. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  32. ^"Rocklist.net ... NME Lists readers Pop Poll". Rocklistmusic.co.uk.Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2012.
  33. ^"Stone Roses 'top British album'".BBC News. ngày 20 tháng 6 năm 2004. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2009.
  34. ^Robb, p. 186
  35. ^Hann, Michael (ngày 27 tháng 6 năm 2012)."Stone Roses reunion weekend sold-out".guardian.co.uk. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2012.
  36. ^Glassman, Julie (ngày 30 tháng 11 năm 2001)."The Beatles' musical footprints". news.bbc.co.uk. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2012.
  37. ^abRaphael, Amy (ngày 20 tháng 6 năm 2004)."The Stone Roses, The Stone Roses".The Observer. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2012.
  38. ^Douglas, Richard (ngày 7 tháng 2 năm 2008)."Reviewe of The Stone Roses". bbc.co.uk. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2012.
  39. ^Stanley, Carl (ngày 16 tháng 10 năm 2011)."Ian Tilton: The Man Who Shot The Stone Roses".Sabotage Times.Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2012.
  40. ^"Noel Gallagher about Stone Roses". YouTube. ngày 6 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2018.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  • Haslam, Dave (2000)Manchester, England, Fourth Estate,ISBN1-84115-146-7
  • McCready, John. "So Near So Far".MOJO, tháng 5 năm 2002
  • Reynolds, Simon. "The Stone Roses: The Morning After".Spin, tháng 5 năm 1995
  • Robb, John (2001)The Stone Roses and the Resurrection of British Pop, Random House,ISBN0-09-187887-X
  • Strong, Martin C. (2003)The Great Indie Discography, Canongate,ISBN1-84195-335-0
  • Taylor, Steve (2004)The A to X of Alternative Music, Continuum,ISBN0-8264-7396-2

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Album phòng thu
Album biên tập
EP
Singles
Lưu diễn
Bài viết liên quan
Tiêu đề chuẩnSửa dữ liệu tại Wikidata
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=The_Stone_Roses&oldid=71661130
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp