Nó có màu sáng óng ánh bạc củaá kim, giòn và có độc tính trung bình, trông giốngthiếc. Teluri có quan hệhóa học gần gũi vớiselen vàlưu huỳnh. Nó hay được dùng trong pha chếhợp kim và chấtbán dẫn.
Nó thường được tìm thấy trong ở dạng tự sinh trong tự nhiên như các tinh thể nguyên tố. Teluri phổ biến trong vũ trụ hơn là trên Trái Đất. Nó là nguyên tố cực kỳ hiếm trong vỏ Trái Đất, hiếm tương đươngplatin, một phần là do sự hình thành của hợp chất vớihydro dễ bay hơi làm cho nguyên tố này bị mất trong không gian ở dạng khí trong quá trình hình thành tinh vân nóng của hành tinh.
Ở dạngtinh thể, teluri có màu sáng bạc và khi ở trạng thái nguyên chất, nó có óng ánh kim loại. Nó giòn, dễ vỡ, dễ nghiền thành bột. Telurivô định hình có thể được tạo ra từkết tủa trong axit chứa teluri (Te(OH)6).[6] Tuy nhiên có tranh cãi rằng dạng kết tủa có thể không thực sự vô định hình mà gồm các vi tinh thể.
Teluri là một chấtbán dẫn loại p, có độ dẫn điện phụ thuộc hướng sắp xếp của các nguyên tử trong tinh thể. Liên hệ hóa học vớiselen vàlưu huỳnh, độ dẫn điện của teluri tăng nhẹ khi được chiếu sáng.[7] Chất bán dẫn teluri có thể được pha thêmđồng,vàng,bạc haykim loại khác.
Teluri thỉnh thoảng có thể tìm thấy ở dạng nguyên chất trong tự nhiên, nhưng thường hay thấy trong các hợp chất vớivàng, hay cáckim loại khác. Do cùng chuỗi hóa học vớiselen vàlưu huỳnh, teluri cũng tạo hợp chất tương tự với các kim loại,hiđrô and hay cácion kiểu này, gọi làtelurit.Vàng vàbạc telurit được coi là cácquặng tốt.[12]
Độ phổ biến của teluri trong vỏ Trái Đất có thể so sánh vớiplatin, teluri là một trong những nguyên tố rắn bền và hiếm trong vỏ Trái Đất. Nó chiếm khoảng 1 µg/kg,[13] trong khi nguyên tố đất hiếmnhóm Lanthan trong vỏ Trái Đất chiếm 500 µg/kg.[14]
Teluri có 30đồng vị đã biết, vớikhối lượng nguyên tử từ 108 đến 137. Teluri là một trong những nguyên tố nhẹ nhất trải qua phân rã anpha, với các đồng vị106Te đến110Te được biết là phân rã theo cơ chế này.[15] Trong tự nhiên tồn tại 8 đồng vị teluri (bảng bên),122Te,124Te,125Te và126Te là bền, trong khi 4 đồng vị còn lại120Te,123Te,128Te and130Te có tính phóng xạ.[15][16]
Các đồng vị bền chỉ chiếm 33,2% trong các teluri tự nhiên; điều này có thể do chu kỳ bán rã dài của các đồng vi phóng xạ.Chu kỳ bán rã của chúng dao động từ 1013 đến 2,2.1024 năm (đối với128Te). Do đó,128Te là đồng vị có chu kỳ bán rã lâu nhất trong tất cả cáchạt nhân phóng xạ,[17] bằng khoảng 160 tỉ (1012) lầntuổi của vũ trụ.
Nguồn thu teluri chủ yếu từ bùn dính tại các điện cựcanode trong lúc điện phân tinh lọc các xốpđồng. Xử lý 500 tấn quặng đồng thu hồi được 0,45 kg teluri. Teluri được sản xuất chủ yếu ởHoa Kỳ,Peru,Nhật Bản vàCanada.[18] Năm 2009, theoCục Địa chất Anh, Hoa Kỳ sản xuất 50 tấn, Peru 7 t, Nhật 40 t và Canada 16 t.[19]
Nồng độ teluri 0,01mg/m3 hay ít hơn trong không khí gây nên mùi giống mùitỏi. Teluri và các hợp chất của nó được coi làđộc và cần phải cẩn trọng khi làm việc với chúng.
^Ramadan, Shadia E.; Razak, A. A.; Ragab, A. M.; El-Meleigy, M. (1989). "Incorporation of tellurium into amino acids and proteins in a tellurium-tolerant fungi".Biological Trace Element Research. Quyển 20 số 3. tr. 225–32.doi:10.1007/BF02917437.PMID2484755.
^Fthenakis, Vasilis M.; Kim, Hyung Chul; Alsema, Erik (2008). "Emissions from Photovoltaic Life Cycles".Environmental Science & Technology. Quyển 42 số 6. tr. 2168–2174.Bibcode:2008EnST...42.2168F.doi:10.1021/es071763q.
^"Noble Gas Research". Laboratory for Space Sciences, Washington University in St. Louis. 2008.Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2010.