Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Tây Sahara

25°B13°T / 25°B 13°T /25; -13
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tây Sahara
الصحراء الغربية
aṣ-Ṣaḥrā' al-Gharbīyah
Bản đồ Tây Sahara.
Các quốc gia và vùng lãnh thổ
Thủ đôLaayoune (El Aaiún)
Dân số586.000[1][a]
Diện tích266.000 km2 (103.000 dặm vuông Anh)
Ngôn ngữ
Tôn giáoHồi giáo
Múi giờGMT (UTC+0)
Đơn vị tiền tệDirham Maroc(MAD)
Mã ISO 3166EH

Tây Sahara (tiếng Ả Rập:الصحراء الغربيةaṣ-Ṣaḥrā' al-Gharbīyah,ngữ tộc Berber:Taneẓroft Tutrimt,tiếng Tây Ban Nhatiếng Pháp:Sahara Occidental) là một vùng lãnh thổ tranh chấp thuộc vùngMaghreb củaBắc Phi, venĐại Tây Dương và giáp vớiMa Rốc,AlgérieMauritanie. Diện tích của Tây Sahara là 266.000 km². Dân số ước lượng vào năm 2015 là 586.000 người, dân cư chủ yếu là nhóm người thuộc dân tộc Arập vàBerber. Tôn giáo chủ yếu và của đa phần dân số làHồi giáo và một số tôn giáo khác. Đất đai phần lớn lãnh thổ là địa hình sa mạc, thuộc phía tây củahoang mạc Sahara, mật độ dân cư khá thưa thớt. Thành phố lớn nhất làEl Aaiún, chiếm một nửa dân số trong toàn vùng này.

Tây Sahara nằm trong Danh sách những lãnh thổ không tự chủ củaLiên Hợp Quốc từ những năm 1960 khi nó còn là thuộc địa củaTây Ban Nha. Hiện tại đây là vùng đất tranh chấp giữaVương quốc Ma Rốc, vốn kiểm soát phần lớn Tây Sahara và tuyên bố chủ quyền trên toàn lãnh thổ này; vàMặt trận Politsario, hiện thời kiểm soát 20% lãnh thổ, đòi giành độc lập dưới tên nhà nướcCộng hoà Dân chủ Ả Rập Sahrawi. Maroc gọi vùng đất này làCác tỉnh phía Nam haySahara thuộc Maroc.

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Lịch sử vùng Tây Sahara ít được biết cho đến khi có những mối quan hệ buôn bán giữa vùng này vớichâu Âu vàothế kỉ 4TCN. Trong thời cổ đại,người Berber đến sinh sống sau đó làngười Ả Rập. Các nhà hàng hảiBồ Đào Nha đếnCape Bojador (bờ biển phía Bắc Tây Sahara hiện nay) năm1434.

Tỉnh người Tây Ban Nha

[sửa |sửa mã nguồn]

Vào năm1884,Tây Ban Nha được thưởng một vùng đất ven biển là vùng đất Tây Sahara ngày nay tại Hội nghịBerlin, và bắt đầu thành lập các địa điểm thương mại và đưa quân đội vào. Biên giới của khu vực không được xác định rõ ràng cho đến khi có bản hiệp ước giữaTây Ban NhaPháp vào đầuthế kỷ 20.Sahara thuộc Tây Ban Nha khi đó tạo thành từ lãnh thổRío de OroSaguia el-Hamra thuộcTây Ban Nha vào năm 1924. Nó không phải, và cũng có chính quyền riêng biệt, với khu vực được biết đến với tên Maroc thuộcTây Ban Nha.Do đó, Tây Ban Nha đã cho thấy họ không thể mở rộng quyền điều hành lên những khu vực sâu trong đất liền cho tới năm 1934. Khi tiến gần đến độc lập vào năm 1956,Maroc đã tuyên bố Tây Sahara thuộcTây Ban Nha là một phần của lãnh thổ trước thuộc địa của họ, và vào năm 1957, Quân đội Giải phóng của Maroc gần như đã đánh đuổi được người Tây Ban Nha ra khỏi đất nước trong Chiến tranh Ifni.Người Tây Ban Nha chỉ có thể tái lập được quyền thống trị với sự hỗ trợ của Pháp vào năm 1958, và bắt tay vào một chiến thuật cứng rắn để trả thù hướng về vùng nông thôn, dùng vũ lực buộc định cư nhiều người du cư trước đây của Sahara thuộcTây Ban Nha và tăng cườngđô thị hóa, trong khi nhiều người khác bị buộc đi đày đến Ma Rốc. Trong cùng năm đó, Tây Ban Nha trả tỉnhTarfayaTantan choMaroc.

Vào thập niên 1960,Maroc tiếp tục tuyên bố chủ quyền ở Tây Sahara thuộcTây Ban Nha và thành công trong việc liệt vùng đất này vào danh sách các vùng lãnh thổ cần phải phá bỏ chế độ thuộc địa. Vào năm 1969,Tây Ban Nha trả choMaroc cùng Ifni, điều này sẽ duy trì sự quản lý củaTây Ban Nha đối với Tây Sahara thuộcTây Ban Nha.

Vào năm 1967, sự thuộc địa hóa củaTây Ban Nha lại bị thách thức lần nữa bởi một phong trào phản kháng ôn hòa,Harakat Tahrir, yêu cầu kết thúc sự chiếm đóng. Sau sự đàn áp bạo lực vào năm 1970,Zemla Intifada chủ nghĩa quốc gia Sahrawi quay trở về nguồn gốc quân sự của nó, với việc thành lậpMặt trận Polisari vào năm 1970. Các du kích của Mặt trận phát triển nhanh chóng, và Tây Ban Nha đã mất đi sự kiểm soát hiệu quả ở vùng nông thôn vào đầu năm 1975. Một nỗ lực phá hoại sức mạnh củaPolisario bằng cách tạo ra đối thủ chính trị hiện đại với nó, Partido de Unión Nacional Saharaui (PUNS), đã có ít thành công.

Tây Ban Nha tiếp tục kết nạp những thủ lĩnh bộ lạc bằng cách lập nên Djema'a, một cơ quan chính trị dựa rất thấp lên sự lãnh đạo của bộ lạc Sahrawi.

Yêu cầu độc lập

[sửa |sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, ngay trước cái chết của độc tàingười Tây Ban NhaFrancisco Franco vào mùa đông năm 1975,Tây Ban Nha phải đương đầu với một chiến dịch đòi lãnh thổ mạnh mẽ của Ma Rốc, và sự mở rộng ít hơn củaMauritanie, nổi lên tột cùng trong Diễu hành Xanh. Tây Ban Nha khi đó đã rút quân đội và người định cư của mình ra khỏi lãnh thổ, sau khi đàm phán vào năm 1975, một thỏa thuận tay ba vớiMarocMauritania, từ đó cả hai nước sẽ cùng điều hành khu vực này. Mauritania sau đó rút lại lời tuyên bố sau khi đánh nhau thất bại vớiPolisario. Maroc liên hệ đến cuộc chiến với Mặt trận Polisario doAlgérie chống lưng, mặc dù một lệnh ngừng bắn đã được đưa ra vào năm 1991, và lãnh thổ vẫn nằm trong sự tranh chấp.

Tây Sahara ngày nay

[sửa |sửa mã nguồn]

Liên Hợp Quốc xem Tây Sahara thuộcTây Ban Nha cũ là một lãnh thổ phi thực dân, với Tây Ban Nha là quyền lực điều hành hình thức. Những nỗ lực hòa bình của Liên Hợp Quốc đã nhắm tới tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân về sự dộc lập trong dân cưSahrawi, nhưng điều này vẫn chưa diễn ra. Liên minhchâu Phi và trong lịch sử đã có ít nhất 41 chính phủ nhìn nhận lãnh thổ có chủ quyền, mặc dù bị chiếm đóng, là quốc gia dưới tênCộng hòa Dân chủ Ả Rập Sahrawi (SADR), với một chính phủ lưu vong doMặt trận Polisario hỗ trợ.

Địa lý

[sửa |sửa mã nguồn]

Tây Sahara làvùng lãnh thổ phía Tây củaBắc Phi, Bắc giápMaroc, Đông giápAlgérie, Đông Nam giápMauritanie, Tây giápĐại Tây Dương.Địa hình đồng bằng vớisa mạc cát và sa mạc đá, có một số núi thấp ở phía đông bắc và phía nam. Khí hậu nhiệt đới khô hạn.Hải lưu lạnh ngoài khơi gây ra sương mù dày ở ven biển.Sông chính của Tây Sahara là Xaghia en Hamra (Saguia - el - Hamra). Nơi đây gần như không có đất canh tác (trừ một sốốc đảo), không córừng,đồng cỏ chiếm 19%, sa mạc chiếm 81%.Khoáng sản chính làphosphatsắt.

Kinh tế

[sửa |sửa mã nguồn]

Tây Sahara là vùng đất nghèotài nguyên và thiếu các nguồnnước.Kinh tế chăn nuôi du mục và đánh cá ven biển. Khoảng 50% lao động làm nông nghiệp.Công nghiệp: khai khoáng (phosphat), tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. GDP đầu người khoảng một vài trăm USD. Sản phẩmnông nghiệp chính:chà làrau tại các ốc đảo. Chăn nuôilạc đà,,cừu. Đánh và làmmuối ven biểnĐại Tây Dương. Năng lượng: điện 79 triệu kW.h. Giao thông: đường bộ 6,1 nghìn km (22% rải nhựa). Xuất nhập khẩu doMaroc kiểm soát. Xuất khẩuphosphat (62% tổng giá trị xuất khẩu), gia súc. Nhập khẩu: lương thực, hàng tiêu dùng, xăng dầu. Đơn vị tiền tệ: dùng tiềnMaroc (đia ham) trong giao dịch ngoại thương. tỷ giá hối đoái: 1 USD = 8,1 đia ham.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^United Nations Statistics Division (2015)."Western Sahara Summary Statistics". UN data. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2015.
  • Tony Hodges (1983),Western Sahara: The Roots of a Desert War, Lawrence Hill Books (ISBN 0-88208-152-7)
  • Anthony G. Pazzanita and Tony Hodges (1994),Historical Dictionary of Western Sahara, Scarecrow Press (ISBN 0-8108-2661-5)
  • Toby Shelley (2004),Endgame in the Western Sahara: What Future for Africa's Last Colony?, Zed Books (ISBN 1-84277-341-0)
  • Erik Jensen (2005),Western Sahara: Anatomy of a Stalemate, International Peace Studies (ISBN 1-58826-305-3)
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềTây Sahara.
Quốc gia có chủ quyền
Bộ phận của
quốc gia có chủ quyền
Lãnh thổ phụ thuộc
Chủ quyền không rõ

Bài viết này vẫn cònsơ khai. Bạn có thể giúp Wikipediamở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềTây Sahara.


Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tây_Sahara&oldid=74186612
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp