Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Tân Ước

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bài viết nàycần thêmchú thích nguồn gốc đểkiểm chứng thông tin. Mời bạn giúphoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tớicác nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ. (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Một phần trongloạt bài về
Cơ Đốc giáo
Principal symbol of Christianity
Nicene
Phục nguyên

Tân Ước, còn gọi làTân Ước Hi văn hoặcKinh Thánh Hi văn (Tiếng Anh:New Testament) là phần cuối của Kinh ThánhKitô giáo, được viết bằng tiếng Hy Lạp bởi nhiều tác giả vô danh trong khoảng từ sau năm 45 Công nguyên tới trước năm 140 Công nguyên (sauCựu Ước). Từ "Tân Ước" được dịch từtiếng LatinhNovum Testamentum, nguyên ngữ Hi văn làKainē Diathēkē (Καινή Διαθήκη), có nghĩa là "Giao ước mới". Thuật ngữ "Tân Ước" lúc đầu đượcKitô hữu dùng để miêu tả mối tương giao giữa họ vàThiên Chúa, về sau được dùng để chỉ một tuyển tập gồm 27 sách.

Nguồn

[sửa |sửa mã nguồn]

Theo các giáo phụ,Phúc Âm MátthêuPhúc Âm Gioan là những sách được trước tác đầu tiên, song nhiều người tin rằngPhúc Âm Máccô và "Nguồn Q" là những nguồn tư liệu chính cho các sách Phúc âm.

Các sách của Tân Ước

[sửa |sửa mã nguồn]

Tân Ước có tổng cộng 27 sách, những sách này được viết bởi các tác giả khác nhau, vào các thời điểm khác nhau và tại các nơi chốn khác nhau. Khác vớiCựu Ước, Tân Ước được trước tác trong một quãng thời gian tương đối ngắn, khoảng chừng một thế kỷ hoặc hơn. Dưới đây là danh mục các sách của Tân Ước với tên của những người được cho là tác giả.

Các sách Phúc âm

[sửa |sửa mã nguồn]
Các sách
Tân Ước
Papyrus 46, one of the oldest New Testament papyri, showing 2 Cor 11:33-12:9
Phúc Âm
Mátthêu · Máccô · Luca · Gioan
— Công vụ —
Công vụ Tông đồ
— Thư tín —
Rôma
1 Côrintô · 2 Côrintô
Galát · Êphêsô
Philípphê · Thư Côlôxê
1 Thêxalônica · 2 Thêxalônica
1 Timôthê · 2 Timôthê
Titô · Philêmon
Do Thái · Giacôbê
1 Phêrô · 2 Phêrô
1 Gioan · 2 Gioan · 3 Gioan
Giuđa
Mặc khải
Khải Huyền
Các thủ bản Tân Ước

Trọng tâm của các sách Phúc âm là cuộc đời, sự chết và sự phục sinh củaChúa Giê-su:

  • Phúc Âm Matthew* -Mátthêu (hoặcMa-thi-ơ), người thu thuế trở nên sứ đồ.
  • Phúc Âm Mark* -Máccô (hoặcMác), môn đệ của Phê-rô và sau đó trở thành người rao giảng tin mừng.
  • Phúc Âm Luke* –Luca, một thầy thuốc, người đã viết Phúc Âm theo Luke và sách Công Vụ Tông Đồ, ông cũng là bạn thân của Paul.
  • Phúc Âm John –Gioan (hoặcGiăng), ngư dân trở nên sứ đồ.

Gọi là nhómPhúc Âm Nhất Lãm (hoặcPhúc Âm Đồng quan).

Sách Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]

Lịch sử hội Thánh tiên khởi, sau khi Chúa Giê-su không còn hiện diện cùng với các Tông đồ, được ký thuật trong sáchCông vụ các Sứ đồ (Công vụ Tông đồ).

Các thư tín

[sửa |sửa mã nguồn]

Các Thư Tín bao gồm nhiều bức thư được viết để gởi các cá nhân hoặc các giáo đoàn (congregation). Trong nhiều thư tín, các tác giả trình bày những luận điểm thần học quan trọng cũng như cung cấp một cái nhìn thấu suốt nhằm lý giải sự phát triển của hội Thánh tiên khởi.

Các thư tín của Phao-lô

[sửa |sửa mã nguồn]

Đây là những thư được tin là doSứ đồ Phao-lô viết cho những cá nhân hoặc nhóm tín hữu khác nhau. Tên của các thư tín này được gọi theo tên người nhận.

Các thư tín chung

[sửa |sửa mã nguồn]

Là những thư được viết cho toàn thể Hội Thánh. Các thư này được gọi theo tên tác giả. Vào thời trung cổ chúng không được sắp xếp chung với các thư của Phao-lô, nhưng với sách Công vụ các Sứ đồ để trở thành bộPraxapostolos.

Sách Tiên tri

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ

[sửa |sửa mã nguồn]

Ngôn ngữ đàm thoại phổ thông trong thời Chúa Giê-su làtiếng Aram. Tuy nhiên, nguyên bản của Tân Ước được viết bằng mộtphương ngữ Hy Lạp cổ (Koine Greek) được dùng phổ biến trong đại chúng tại các tỉnh thuộc Đế quốc La Mã vàothế kỷ thứ 1, từ đó được dịch ra các ngôn ngữ khác, quan trọng nhất làtiếng Latinh,tiếng Syria, vàtiếng Copt. Nhiều giáo phụ cho rằng Phúc âm Mátthêu khởi thủy được viết bằngtiếng Hebrew (Do Thái), một số giáo phụ cũng tin rằng Phaolô viết thư Do Thái bằng tiếng Hebrew, sau đó được Luca dịch ratiếng Hy Lạp. Cả hai quan điểm này đều không nhận được nhiều ủng hộ từ các học giả hiện đại, họ cho rằng dựa trên văn phong của Phúc âm Mátthêu và thư Do Thái, có thể suy đoán chúng được trước tác trong nguyên văn bằng tiếng Hy Lạp.

Cần lưu ý rằng nhiều sách trong Tân Ước, đặc biệt là Phúc âm Macô và Phúc âm Gioan được viết bằng thứ tiếng Hy Lạp chưa hoàn chỉnh. Chúng thua xa các tác phẩm cổ điển hoặc văn chương sáng tác bằng Hi văn bởi những tác giả thuộc giai tầng thượng lưu, thành phần ưu tú và các triết gia sống vào thời ấy.

Một số học giả cho rằng bản Tân Ước tiếng Aram là nguyên bản, còn bản Hi văn chỉ là bản dịch.[cần dẫn nguồn]

Tác giả

[sửa |sửa mã nguồn]

Tân Ước được trước tác bởi nhiều người khác nhau. Niềm tin truyền thống cho rằng tất cả các sách này được viết bởi các sứ đồ hoặc bởi các môn đệ của họ (như Macô hay Luca). Song giới học giả hiện đại tỏ ra không đồng ý với quan điểm trên. Ngoại trừ thư Do Thái, không có nghi vấn nào về quyền tác giả của các sách kể trên cho đếnthế kỷ 18 khi làn sóng tra vấn về thẩm quyền của Tân Ước bắt đầu bùng phát.

Bảy trong số các thư tín được viết bởi Phao-lô ngày nay được các học giả công nhận là chính xác bao gồm: Roma, 1 Côrintô, 2 Côrintô, Galat, Philipphê, 1 Thexalonica và Philêmôn. Nhưng họ không thể đồng ý với nhau có phải Phao-lô là tác giả của 2 Thessalonica, Colôsê và Ephêxô hay không. Nhìn chung, chỉ có giới học giả Tin Lành (Evangelical) chấp nhận quan điểm cho rằng Phao-lô là tác giả của các thư mục vụ (1 Ti-mô-thê, 2 Ti-mô-thê và Titô). Ngày nay, hầu như không có học giả nào cho rằng Phao-lô viết thư Do Thái.[cần dẫn nguồn] Thật vậy, cuộc tranh luận về tác giả thư Do Thái, thư tín duy nhất không có tên tác giả, bắt đầu từ thời kỳ các giáo phụ.Tertullian gợi ý đó làBarnabas, nhưngClement thành Alexandria suy đoán rằng thư này được viết bởi Phao-lô, dịch bởi Luca hoặc bởi Clement thành Roma (sau này làGiáo hoàngClement I). CònOrigen (Ὠριγένης), ngay giữa cuộc tranh luận, cho rằng "chỉ có Chúa mới biết" ai thật sự là tác giả.[cần dẫn nguồn]

Trong các sách được cho là viết bởi sứ đồ Gioan, Phúc âm Gioan và thư Gioan thứ nhất được chấp nhận là của Gioan, vấn đề còn lại là xemtác giả sách Khải HuyềnGioan Tông đồ[1] hay là một Gioan nào khác.

Vấn đề tìm kiếm tác giả cho các tác phẩm cổ đại như các sách trong Tân Ước được thể hiện rõ khi xem xét các sách Phúc âm.

Vì cớ nhiều chi tiết tương đồng được tìm thấy trong ba sách Phúc âm Matthêu, Macô, Luca, chúng được gọi là "Phúc âm đồng quan" (Synoptic Gospels). Ngược lại, có những câu chuyện và nội dung các cuộc đàm đạo chỉ được ký thuật trong Phúc âm Gioan, vì vậy sách này được xem là có quan điểm khác biệt với ba sách Phúc âm nêu trên.

Có một quan điểm được nhiều học giả phê phán Tân Ước chấp nhận là Giả thuyết Hai nguồn tư liệu. Theo đó, Phúc âm Matthêu và Phúc âm Luca được xây dựng trên nguồn tư liệu của Phúc âm Macô và từ một nguồn chung gọi là "Nguồn Q", từ thuật ngữ "Quelle" trongtiếng Đức nghĩa là "nguồn". Song bản chất và ngay cả sự hiện hữu của Q chỉ có tính suy diễn. Hầu hết các học giả chấp nhận giả thuyết này cho rằng Q là nguồn tư liệu duy nhất, trong khi những người khác tin Q là một tập hợp các tư liệu hoặc một số truyền khẩu. Từ những dữ liệu hiện có, không có thông tin nào giúp tìm ra tác giả của Q.

Thời điểm trước tác

[sửa |sửa mã nguồn]

Theo truyền thống, những sách được viết đầu tiên là các thư tín củaPhao-lô, các sách sau cùng được cho là củaGioan Tông đồ.[f] Tương truyền Gioan có tuổi thọ cao, có lẽ đến 100 tuổi, tuy điều này xem ra không có nhiều tính thuyết phục.Irenaeus thành Lyons, vào khoảng năm185, thuật rằng Phúc âm Mátthêu và Phúc âm Máccô (Macô hoặcMác) được viết đang lúc Peter (Phê-rô hoặcPhi-e-rơ) và Phao-lô thuyết giáo tại Roma, có lẽ vàothập niên 60. Phúc âm Luca được trước tác một thời gian sau đó.

Người ta tin là Phúc âm Mác được viết sau năm65, Phúc âm Mátthêu (Matthêu hoặcMa-thi-ơ) được trước tác vào một thời điểm nào đó giữa năm7085. Thời điểm dành cho Phúc âm Luca được đặt trong khung thời gian giữa các năm8095. Sách được viết sớm nhất của Tân Ước có lẽ là 1 Thessalonica, một thư tín của Phao-lô, được viết khoảng năm 51 hoặc thư Galat vào năm49.

Tuy nhiên,John A. T. Robinson, tác giả quyểnRedating the New Testament (1976), cho rằng toàn bộ các sách Tân Ước được hoàn tất trước năm70, thời điểm đền thờ tạiJerusalem bị huỷ phá. Theo lập luận của Robinson, sự phá hủy đền thờ đã được tiên báo bởiChúa Giê-xu và được chép trong Ma-thi-ơ 24. 15 – 21 và Luca 23. 28 – 31, các tác giả của hai Phúc âm này và của các sách khác trong Tân Ước không thể không chỉ ra sự ứng nghiệm lời tiên tri. Quan điểm của Robinson được chấp nhận rộng rãi trong vòng các tín hữuTin Lành (Evangelical).

Vàothập niên 1830, các học giả của trườngTübingen (tạiĐức) ấn định thời điểm trước tác của các sách Tân Ước đếnthế kỷ thứ 3, nhưng sự phát hiện một số bản cổ sao Tân Ước có niên đại năm125 dẫn đến những nghi vấn về quan điểm này. Hơn nữa, Clement thành Roma vào năm95, trong một bức thư gởi đến hội Thánh tạiCorintho (ΚόρινθοςKórinthos), trích dẫn 10 trong số 27 sách của Tân Ước, và trong một bức thư gởi hội Thánh tạiPhilippi (ΦἱλιπποιPhilippo),Polycarp trích dẫn 120 lần từ 16 sách Tân Ước.

Tuyển chọn

[sửa |sửa mã nguồn]

Một quy trình phức tạp và kéo dài được áp dụng cho việc tuyển chọn (quy điển) cho Tân Ước. Đặc điểm của các sách được chọn là phải được đông đảo tín hữu công nhận là có tính soi dẫn khi được dùng trong thờ phụng và giảng dạy, phù hợp với bối cảnh lịch sử của chúng, và hài hòa với Kinh Thánh Do Thái (các cộng đồng Cơ đốc đầu tiên hầu hết là người Do Thái). Bằng cách này, các sách được công nhận là sự mặc khải về Giao Ước Mới phải vượt qua sự sàng lọc không phải tại các buổi họp của các công đồng nhưng tại các buổi thờ phụng kín giấu của các nông dân thuộc giai cấp hạ lưu trong thời kỳ hội Thánh đang bị bách hại.

Trong ba thế kỷ đầu của hội Thánh không có sự đồng thuận hoàn toàn về kinh điển Tân Ước. Vàothế kỷ thứ 2 xuất hiện một tuyển tập các thư tín và các sách Phúc âm được các nhà lãnh đạo hội Thánh xem là có thẩm quyền, bao gồm bốn sách Phúc âm và nhiều thư tín của Phao-lô.Justinô Tử đạo,IrenaeusTertullian (thuộc thế kỷ thứ 2) tin rằng chúng có sựlinh hứng nhưKinh Thánh Do Thái (Cựu Ước). Những sách khác, dù được tôn trọng và yêu thích, dần dần được xếp vào danh sách các thứ kinh.

Một trong những nỗ lực đầu tiên nhằm xác lập một bộ kinh điển đến từMarcion. Ông bác bỏ toàn bộ Cựu Ước và chỉ giữ lại trong danh sách của mình Phúc âm Luca và mười trong số các thư tín của Phao-lô. Quan điểm không chính thống này, cùng với nền thần học khả tri (gnostic) của ông, bị đa số tín hữu khước từ.

Bộ kinh điển Tân Ước lần đầu tiên được liệt kê bởiAnathasius, Giám mục thành Alexandria, vào năm367, trong một bức thư gởi cho các giáo đoàn của ông tạiAi Cập. Danh sách này ngày càng được chấp nhận rộng rãi cho đến khi có được sự đồng thuận tại công đồng lần thứ ba tại Carthage vào năm397. Dù vậy, quyết định của công đồng này không phải là chung quyết. Vẫn còn tra vấn về thẩm quyền của một vài sách, đặc biệt là các sách Gia-cơ và Khải Huyền.

Thẩm quyền

[sửa |sửa mã nguồn]

Dù các nhóm trong cộng đồng Cơ Đốc giáo đều tôn trọng Tân Ước, họ lại duy trì các quan điểm khác biệt về bản chất, mức độ và tính xác đáng của thẩm quyền Tân Ước. Các quan điểm này phụ thuộc vào khái niệm soi dẫn, liên quan đến vai trò củaThiên Chúa trong việc hình thành Tân Ước. Nhìn chung, vai trò của Thiên Chúa trong thuyết soi dẫn càng lớn thì các khái niệm về các tính chất không sai lầm, không mắc lỗi và có thẩm quyền của Kinh Thánh càng được khẳng định. Song không dễ định nghĩa các khái niệm này vì chúng được giải thích bởi các quan điểm khác nhau.

  • Không sai lầm (infallibility) chỉ tính chân xác tuyệt đối của Kinh Thánh trong các vấn đề giáo lý.
  • Không mắc lỗi (inerrancy) chỉ tính chân xác tuyệt đối của Kinh Thánh trong các vấn đề về sự kiện (bao gồm các sự kiện lịch sử và khoa học).
  • Thẩm quyền (authoritativeness) chỉ tính chân xác của Kinh Thánh liên quan đến các vấn đề về đạo đức và sống đạo.

Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương

[sửa |sửa mã nguồn]

Đối vớiCông giáo RômaChính Thống giáo Đông phương, đồng tồn tại hai nhân tố của sự mặc khải,Thánh KinhThánh truyền (tức các truyền thống Tông đồ), được luận giải theo sự dạy dỗ của giáo hội. Theo thuật ngữ Công giáo, thẩm quyền giải thích kinh Thánh và truyền thống thuộcMagisterium (gồm cógiáo hoàng và một sốGiám mục thuộc quyền), trong khi Chính Thống giáo dành quyền này cho các công đồng.

Kháng Cách

[sửa |sửa mã nguồn]

Xác tín với giáo lý Duy Thánh Kinh (xemNăm Tín lý Duy nhất), tín hữuKháng Cách tin rằngđức tin, sống đạo và giáo huấn của họ phù hợp với Kinh Thánh và công nhận Kinh Thánh là thẩm quyền duy nhất.

Tin Lành và Nền tảng

[sửa |sửa mã nguồn]

Những người theo khuynh hướngTin Lành (Evangelicalism) và Nền tảng (Fundamentalism) tin rằng có hai nhân tố trong sự mặc khải: con người và thần thượng. Nhân tố con người hiện diện trong văn phong của các tác giả và nhân tố thần thượng trong sự soi dẫn củaChúa Thánh Linh sao cho mọi điều họ viết đều phù hợp với chân lý.

Trong vòng nước Mỹ,Bản Tuyên ngôn Chicago về tính Vô ngộ của Kinh Thánh được xem là sự trình bày khúc triết quan điểm của cộng đồng Tin Lành về vấn đề này: "Là sự mặc khải củaThiên Chúa, Kinh Thánh không mắc sai lầm trong toàn bộ giáo huấn, trọn vẹn trong sự mặc khải về công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, về những sự kiện lịch sử, về sự soi dẫn của Thiên Chúa trong các tác phẩm văn chương, cũng như lời chứng vềân điển cứu chuộc của Thiên Chúa trong đời sống của mỗi cá nhân."

Chính lưu và Tự do

[sửa |sửa mã nguồn]

Các nhóm Kháng Cách Chính lưu (mainstream) và Tự do (liberal) tin vào thẩm quyền và tính chân xác của Kinh Thánh nhưng họ tìm cách giải thích Kinh Thánh sao cho có thể bao hàm quan điểm của các trào lưu khác nhau, từ khuynh hướng Tin Lành cho đến khuynh hướng hoài nghi.

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]

Ghi chú

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Thánh Gia-cô-bê Công chính là cách gọi của Công giáo, còn cách gọi của Tin Lành làGia-cơ.
  2. ^Thánh Phê-rô là cách gọi của Công giáo, còn cách gọi của Tin Lành làSứ đồ Phi-e-rơ.
  3. ^Các học giả hiện đại cho là thư này được viết bởi một người khác.
  4. ^Thánh Gioan Tông đồ là cách gọi của Công giáo, còn cách gọi của Tin Lành làSứ đồ Giăng.
  5. ^Các thư tín của Gioan thường được cho là được viết bởi các môn đệ của ông, tuy Thư thứ nhất của Gioan rất giốngPhúc âm Gioan về văn phong và từ vựng.
  6. ^Thánh Gioan Tông đồ là cách gọi của Công giáo, còn cách gọi của Tin Lành làSứ đồ Giăng.

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^Justinô Tử đạo.Dialogue with Trypho. Chapter LXXXI.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikiquote có bộ sưu tập danh ngôn về:
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:
TraTân Ước trong từ điển mở tiếng ViệtWiktionary
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềTân Ước.
Cổng thông tin:
Quốc tế
Quốc gia
Khác
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tân_Ước&oldid=70975417
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp