Movatterモバイル変換


[0]ホーム

URL:


Bước tới nội dung
WikipediaBách khoa toàn thư mở
Tìm kiếm

Slovakia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cộng hòa Slovakia
Tên bản ngữ
Quốc huy Slovakia
Quốc huy

Quốc caNad Tatrou sa blýska (tiếng Slovak)
"Tia chớp trên đỉnhTatra"
Quốc ấn
Thế giới
Châu Âu
Vị trí của Slovakia (xanh đậm)

– ở châu Âu (xanh & xám đậm)
– trong Liên minh châu Âu (xanh)  –  [Chú giải]

Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Bratislava
48°09′B17°07′Đ / 48,15°B 17,117°Đ /48.150; 17.117
Ngôn ngữ chính thứcTiếng Slovakia
Sắc tộc
(2021)[a][1]
Tôn giáo
(2021)[2]
Tên dân cưNgười Slovakia
Chính trị
Chính phủCộng hòa đại nghịđơn nhất
Peter Pellegrini
Robert Fico
Richard Raši
Lập phápHội đồng Quốc gia
Lịch sử
Hình thành
28 tháng 10 năm 1918
4 tháng 6 năm 1920
30 tháng 9 năm 1938
14 tháng 3 năm 1939
24 tháng 10 năm 1945
25 tháng 2 năm 1948
11 July 1960
• Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Slovakia (thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc sau khi Tiệp Khắc trở thành nhà nước liên bang)
1 tháng 1 năm 1969
1 tháng 3 năm 1990
1 tháng 1 năm 1993
Địa lý
Diện tích 
• Tổng cộng
49,035 km2 (hạng 127)
18,932 mi2
• Mặt nước (%)
0,72 (2015)[5]
Dân số 
• Ước lượng 2024
Neutral decrease 5.419.451[3] (hạng 119)
• Điều tra 2021
Tăng 5.449.270[4]
110/km2 (hạng 103)
280/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2025
• Tổng số
Tăng 256,710 tỷ đô la Mỹ[6] (hạng 70)
Tăng 47.440 đô la Mỹ[6] (hạng 46)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2025
• Tổng số
Tăng 152,480 tỷ đô la Mỹ[6] (hạng 61)
• Bình quân đầu người
Tăng 28.180 đô la Mỹ[6] (hạng 44)
Đơn vị tiền tệEuro () (EUR)
Thông tin khác
Gini? (2022)Giảm theo hướng tích cực 21.2[7]
thấp
HDI? (2023)Tăng 0,880[8]
rất cao · hạng 44
Múi giờUTC+1 (Giờ Trung Âu)
• Mùa hè (DST)
UTC+2 (Giờ mùa hè Trung Âu)
Cách ghi ngày thángd. m. yyyy
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+421
Mã ISO 3166SK
Tên miền Internet.sk.eu


Slovakia (tiếng Slovak:Slovensko), quốc hiệu chính thức làCộng hòa Slovakia (Slovenská republika) là mộtquốc gia nằm kín trong lục địa tạiTrung Âu[9][10] với dân số trên 5 triệu người và diện tích khoảng 49,000 km2. Slovakia giáp biên giới vớiSécÁo ở phía tây,Ba Lan ở phía bắc,Ukraina ở phía đông vàHungary ở phía nam. Lãnh thổ chủ yếu là miền núi của Slovakia trải dài khoảng 49.000 kilômét vuông (19.000 dặm vuông Anh), với dân số hơn 5,4 triệu người. Thủ đô và thành phố lớn nhất của Slovakia làBratislava, và thành phố lớn thứ hai làKošice.

NgườiSlav đến lãnh thổ của Slovakia ngày nay vào thế kỷ thứ 5 và thứ 6. Vào thế kỷ thứ 7, họ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo raĐế chế của Samo. Vào thế kỷ thứ 9, họ thành lậpCông quốc Nitra, sau đó bịCông quốc Moravia chinh phục để thành lậpGreat Moravia. Vào thế kỷ thứ 10, sau khi Đại Moravia tan rã, lãnh thổ này được hợp nhất vàoCông quốc Hungary, sau đó trở thànhVương quốc Hungary vào năm 1000.[11] Vào năm 1241 và 1242, saucuộc xâm lược của người Mông Cổ vào châu Âu, phần lớn lãnh thổ đã bị phá hủy. Khu vực này được phục hồi phần lớn nhờBéla IV của Hungary, người cũng đã định cưngười Đức, khiến họ trở thành một nhóm dân tộc quan trọng trong khu vực, đặc biệt là ở khu vực ngày nay thuộcmiền trungmiền đông Slovakia.[12]

SauChiến tranh thế giới thứ nhất và sự tan rã củaĐế quốc Áo-Hung, nhà nướcTiệp Khắc được thành lập.Cộng hòa Slovak đầu tiên tồn tại trongChiến tranh thế giới thứ hai với tư cách là mộtquốc gia phụ thuộc đượcĐức Quốc xã công nhận một phần. Vào cuối Thế chiến thứ hai, Tiệp Khắc được tái lập thành một quốc gia độc lập. Saucuộc đảo chính năm 1948, Tiệp Khắc nằm dưới sựquản lý của cộng sản, và trở thành một phần củaKhối phía Đông doLiên Xô lãnh đạo. Các nỗ lực nhằmtự do hóa chủ nghĩa cộng sảnTiệp Khắc lên đến đỉnh điểm làMùa xuân Praha, nhưng đã bịcuộc xâm lược của Khối Warszawa vào Tiệp Khắc đè bẹp vào tháng 8 năm 1968. Năm 1989,Cách mạng Nhung đã chấm dứt một cách hòa bình sự cai trị của chủ nghĩa cộng sản ở Tiệp Khắc. Slovakia trở thành mộtquốc gia độc lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1993 sau khiTiệp Khắc được giải thể một cách hòa bình, đôi khi được gọi là Cuộc ly hôn nhung.

Slovakia là mộtquốc gia phát triểnvới nền kinh tế tiên tiến có thu nhập cao, xếp hạng rất cao trongChỉ số Phát triển Con người. Quốc gia này cũng có các chỉ số cao vềquyền tự do dân sự,tự do báo chí,tự do internet,quản trị dân chủhòa bình. Quốc gia này duy trì sự kết hợp giữanền kinh tế thị trườngvới hệ thống an sinh xã hội toàn diện, cung cấp cho công dândịch vụ chăm sóc sức khỏe toàn dân,giáo dục miễn phí và là một trong những quốc gia trongOECD có thời giannghỉ việc hưởng lương lâu nhất của cha mẹ.[13] Slovakia là thành viên củaNATO,CERN,Liên minh Châu Âu,Khu vực đồng tiền chung châu Âu,Khu vực Schengen,Liên Hợp Quốc, OECD,WTO,Hội đồng Châu Âu,Nhóm VisegrádOSCE. Quốc gia này là nước sản xuất ô tô bình quân đầu người lớn nhất thế giới, với lượng ô tô sản xuất tổng cộng 1,1 triệu chiếc vào năm 2019, chiếm 43% tổng sản lượng công nghiệp toàn quốc gia.[14]

Lịch sử

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Lịch sử Slovakia

Trước thế kỷ thứ V

[sửa |sửa mã nguồn]
Một bản văn khắc bằng tiếng La Mã tại lâu đài đồiTrenčín (178–179 AD).

Xác định niên đại các bon cho thấy những đồ tạo tác khảo cổ lâu đời nhất còn tại Slovakia – được tìm thấy gầnNové Mesto nad Váhom năm 270.000 trướcCông Nguyên, thời kỳĐầu Đồ đá cũ. Những công cụ cổ đó, được làm theokỹ thuật Clactonian, là bằng chứng về dân cư cổ tại Slovakia.

Các dụng cụ đá khác từthời kỳ Giữa Đồ đá cũ (200.000 – 80.000 trước Công Nguyên) có tại hang Prévôt gầnBojnice và những địa điểm lân cận. Khám phá quan trọng nhất từ thời kỳ này là mộtsọ ngườiNeanderthal (khoảng năm 200.000 trước Công Nguyên), được phát hiện gầnGánovce, một làng ở phía bắc Slovakia.

Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những bộ xươngngười thông minh tiền sử trong vùng, cũng như một số đồ vật và dấu tích của văn hoáGravettian, chủ yếu tại các châu thổ sôngNitra,Hron,Ipeľ,Váh và cả ở tận thành phốŽilina, và gần chânNúi Vihorlat, Inovec, vàTribeč, cũng như tại núiMyjava. Những khám phá nổi tiếng nhất gồm tượng phụ nữ cổ nhất làm bằng xươngvoi mammoth (22 800 trước Công Nguyên), tượngVenus của Moravany. Bức tượng được tìm thấy trong thập niên 1940 tạiMoravany nad Váhom gầnPiešťany. Nhiều vòng tay làm bằng vỏ ốc từ Cypraca thermophilegastropods thuộcgiai đoạn Tertiary có tại các địa điểm Zákovská, Podkovice, Hubina, và Radošinare. Những khám phá đó cung cấp bằng chứng sớm nhất về sự trao đổi thương mại được tiến hành giữaĐịa Trung HảiTrung Âu.

Từ khoảngnăm 500 trước Công Nguyên, lãnh thổ Slovakia ngày nay là nơi định cư củangười Celt, họ đã xây dựng nênoppida trên các địa điểm tạiBratislavaHavránok hiện nay. CácBiatec,đồng xu bạc với tên của các vị Vua người Celt, là bằng chứng sớm nhất về việc sử dụng chữ viết tại Slovakia. Từ năm thứ hai của Công Nguyên,Đế chế La Mã đang mở rộng đã thiết lập và duy trì một loạt các tiền đồn xung quanh và ngay ở phía bắcDanube, tiền đồn lớn nhất làCarnuntum (những tàn tích lớn nhất của chúng nằm trên con đường chính giữa Vienna và Bratislava) và Brigetio (Szöny hiện nay tại biên giới Slovakia-Hungary). Gần đường cực bắc của các vùng nội địa La Mã,Limes Romanus, là nơi có trại mùa đông củaLaugaricio (Trenčín hiện nay) nơi Đơn vị phụ trợ của Lữ đoàn II đã chiến đấu và giành chiến thắng trong một trận chiến quyết định trước bộ tộcQuadi Germanic năm179 AD trong thờiNhững cuộc chiến tranh Marcomannic. Vương quốcVannius, một vương quốcdã man được các bộ tộcGermanicSuebiQuadiMarcomanni thành lập, cũng như nhiềubộ tộc Celtic và Germanic, gồmOsiCotini, tồn tại ở phía Tây và Trung Slovakia từ năm 8–6 trước Công Nguyên tới năm 179 của Công Nguyên.

Left: Đồng xuceltBiatecRight: đồng 5slovak crown với Biatec ở mặt trước

Thời kỳ đồ đồng tại Slovakia kéo dài suốt ba thời kỳ phát triển, từnăm 2000 đến 800 trước Công Nguyên. Phát triển kinh tế, chính trị và văn hoá lớn có thể gắn liền với sự tăng trưởng vượt bậc trong sản xuấtđồng, đặc biệt tại trung Slovakia (ví dụ tạiŠpania Dolina) và tây bắc Slovakia. Đồng trở thành một nguồn cung cấp tài sản ổn định cho dân cư địa phương. Sau sự biến mất của các nền văn hoá Čakany vàVelatice, ngườiLusatian mở rộng và xây dựng các pháo đài mạnh và phức tạp, với những toà nhà và trung tâm hành chính lớn. việc khai quật cácpháo đài Lusatian cung cấp bằng chứng về sự phát triển thương mại và nông nghiệp ổn định ở thời kỳ đó. Sự phong phú và đa dạng các đồ vật trong các ngôi mộ tăng đều. Những người dân trong khu vực này sản xuất vũ khí, khiên, đồ trang sức, đĩa và các bức tượng. Sự xuất hiện của các bộ tộc từThrace khiến nền văn hoá của người Calenderberg ngắt quãng. Người Calenderberg sống tại đồng bằng (Sereď), và cả tại các pháo đài đồi trên các đỉnh núi (Smolenice, Molpí). Quyền lực địa phương của các "Hoàng tử" củavăn hoá Hallstatt biến mất tại Slovakia trong giai đoạn cuối cùng củaThời đồ sắt sau sự xung đột giữa ngườiScytho-Thracian và các bộ tộcCeltic tribes, tiến từ phía nam tới phía bắc, theo các con sông của Slovakia.

Những cuộc xâm lược lớn thế kỷ IV–VII

[sửa |sửa mã nguồn]

Ở thế kỷ thứ hai và ba của Công Nguyên ngườiHuns bắt đầu rời các thảo nguyênTrung Á. Họ vượt sông Danube năm 377 và chiếm Pannonia, và sử dụng nó trong 75 năm làm căn cứ tung ra các cuộc tấn công cướp bóc vàoTây Âu. Tuy nhiên, cái chết của Attila năm 453 đã dẫn tới sự biến mất của bộ tộc Hun. Năm 568 một bộ tộc tiền Mông Cổ, ngườiAvar, tiến hành cuộc xâm lược của họ vào vùng Trung Danube. Người Avar chiếm các vùng đất thấp thuộcĐồng bằng Pannonian, lập ra một đế chế thống trịChâu thổ Karpat. Năm 623, dân cư Slavơ sống tại các vùng phía tâyPannonia rút khỏi đế chế của họ sau một cuộc cách mạng do Samo, một thương gia người Frankish lãnh đạo.[15] Sau năm 626 quyền lực của người Avar dần suy tàn.[16]

Các nhà nước Slavơ

[sửa |sửa mã nguồn]

Các bộ tộcSlavơ đã định cư ở lãnh thổ Slovakia hiện nay từthế kỷ thứ V. Vùng tây Slovakia từng là trung tâm củađế chế Samothế kỷ VII. Một nhà nước Slavơ được gọi làCông quốc Nitra nổi lên ởthế kỷ VIII và người cầm quyền ở đóPribina đã cho xây dựngnhà thờ Công giáo đầu tiên của Slovakia năm 828. Cùng với nướcMoravia láng giềng, công quốc đã thành lập nên cốt lõi củaĐế chế Đại Moravia từ năm 833. Đỉnh cao của đế chế Slavơ này diễn ra trùng với sự xuất hiện củaSaints Cyril và Methodius năm 863, trong thời cai trị của Hoàng tửRastislav, và lãnh thổ mở rộng dưới thời VuaSvätopluk I.

Thời kỳ Đại Moravia (830–896)

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Đại Moravia
Trung Âuthế kỷ IX.Đông Francia màu xanh dương,Bulgaria màu vàng,Đại Moravia thờiRastislav (870) xanh lá cây. Đường màu xanh là các biên giới của Đại Moravia thờiSvatopluk I (894).Xin lưu ý rằng một số biên giới của Đại Moravia vẫn đang bị tranh cãi

Đại Moravia nổi lên khoảng năm 830 khi Moimír I thống nhất các bộ tộc Slavơ định cư ở phía bắc sôngDanube và mở rộng sự cai trị của Moravia tới đó.[17] KhiMojmír I cố thoát khỏi sự cai quản của vuaĐông Francia năm 846, VuaLouis the German đã hạ bệ ông và ủng hộ cháu của Moimír,Rastislav (846–870) lên ngôi.[18] Triều đình mới theo đuổi một chính sách độc lập: sau khi ngăn chặn cuộc tấn công của người Frankish năm 855, ông cũng tìm cách làm suy yếu ảnh hưởng của các thầy tu Frankist đang truyền giáo trong lãnh thổ của mình. Rastislav đã yêu cầuHoàng đế ByzantineMichael III gửi các giáo viên có khả năng dịch thánh kinh sang ngôn ngữ Slavơ. Theo yêu cầu của Rastislav, hai người anh em, các quan chức Byzantine và là các nhà truyền giáoCyril và Methodius tới đây năm 863.Cyril (Kyrillô) đã phát triểnbảng chữ cái Slavơ đầu tiên và dịch Phúc âm sang ngôn ngữSlavơ Giáo hội cổ. Rastislav cũng quan tâm tới việc đảm bảo an ninh và quản lý hành chính cho nhà nước của mình. Nhiều lâu đài có hệ thống phòng thủ mạnh được xây dựng khắp nước có niên đại từ thời cầm quyền của ông và một số chúng (ví dụ.,Dowina, thỉnh thoảng được gọ làDevín Castle)[19][20] cũng được cho là có liên quan tới Rastislav theo những cuốn biên niên sử Frankish.[21][22]

Trong thời cầm quyền của Rastislav, Công quốc Nitra được trao cho cháu của ông Svatopluk như một thái ấp.[20] Vị hoàng tử nối loạn liên kết với người Frank và lật đổ người chú của mình năm 870. Tương tự với người tiền nhiệm của ông, Svatopluk I (871–894) đã lên giữ ngôi Vua (rex). Trong thời cai trị của ông, Đế chế Đại Moravia phát triển tới cực điểm về lãnh thổ, khi không chỉMoravia và Slovakia hiện nay mà cả bắc vàtrung Hungary,Hạ Áo,Bohemia,Silesia,Lusatia, namBa Lan và bắcSerbia hiện nay đều thuộc đế chế, nhưng các biên giới chính xác của đế quốc của ông vẫn bị các học giả hiện đại tranh cãi.[23] Svatopluk cũng chống lại các cuộc tấn công của các bộ tộcdu mụcMagyarĐế chế Bulgaria, dù thỉnh thoảng chính ông thuê người Magyar khi tổ chức các cuộc chiến tranh chống lại Đông Francia.[24]

Năm 880,Giáo hoàng John VIII lập ra mộttỉnh đại hội độc lập tại Đại Moravia với Tổng Giám mụcMethodius là người đứng đầu. Ông cũng chỉ định tu sĩ người GermanWiching làm Giám mụcNitra.

Sau cái chết của Vua Svatopluk năm 894, các con trai của ôngMojmír II (894–906?) vàSvatopluk II nối ngôi làm Vua Đại Moravia và Hoàng tử Nitra.[20] Tuy nhiên, họ bắt đầu tranh cãi về việc cai trị toàn bộ đế chế. Bị suy yếu bởi cuộc xung đột bên trong cũng như những cuộc chiến tranh thường xuyên với Đông Francia, Đại Moravia mất các lãnh thổ ngoại vi của mình.

Cùng lúc ấy, các bộ tộc Magyar, có thể vì sự thất bại trước một bộ tộc du mục khác làPechenegs, rời lãnh thổ của họ ở phía đông dãy núi Karpat, xâm lược Châu thổ Karpat và bắt đầu chiếm dần lãnh thổ khoảng năm 896.[25] Quân đội của họ có thể đã được khuyến khích bởi những cuộc chiến tranh liên tục giữa các quốc gia trong vùng và thỉnh thoảng các vị vua cai trị những quốc gia đó vẫn thuê họ can thiệp vào các cuộc chiến tranh của mình.[26]

Có lẽ cảMojmír IISvatopluk II đều chết trong các trận chiến vớingười Magyar trong khoảng từ năm 904 đến năm 907 bởi tên của họ không được đề cập tới trong các văn bản sau năm 906. Trongba trận chiến (4–5 tháng 7 và 9 tháng 8 năm 907) gầnBratislava, người Magyar đánh bại quân độiBavaria. Các nhà lịch sử thường coi đây là năm tan rã của Đế chế Đại Moravia.

Đại Moravia để lại phía sau một di sản vĩnh cửu tại Trung và Đông Âu.Ký tự Glagolitic và hậu duệ của nóký tự Cyrillic đã đồng hoá vào trong các quốc gia Slavơ khác, lập ra một con đường mới trongsự phát triển văn hoá của họ. Hệ thống hành chính của Đại Moravia có thể có ảnh hưởng tới sự phát triển của hệ thống hành chính củaVương quốc Hungary.

Vương quốc Hungary (1000–1919)

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Vương quốc Hungary
Ľudovít Štúr

Sau sự tan rã của Đế chế Đại Moravia đầuthế kỷ thứ X,người Hungary dần sáp nhập lãnh thổ bao gồm Slovakia ngày nay. Cuối thế kỷ thứ X, các vùng phía tây nam của Slovakia hiện nay trở thành một phần của công quốc Hungary đang nổi lên, trở thànhVương quốc Hungary sau năm 1000. Sau đó vùng này trở thành một phần không thể tách rời của nhà nước Hungary cho tới sự sụp đổ củaĐế chế Áo-Hung năm 1918. Thành phần sắc tộc trở nên đa dạng hơn với sự xuất hiện củangười German Carpathian ở thế kỷ XIII, vàngười Do tháithế kỷ XIV.

Một sự sụt giảm dân số mạnh là kết quả của cuộcxâm lược của người Mông Cổ năm 1241 vànạn đói sau đó. Tuy nhiên, trong thời trung cổ vùng Slovakia hiện nay có đặc điểm bởi các thị trấn đang phát triển, việc xây dựng nhiều lâu đài đá, và sự phát triển nghệ thuật.[27] Năm 1465, VuaMatthias Corvinus đã lập ra trường đại học thứ ba của Vương quốc Hungary, tạiBratislava (khi ấy là Pressburg hay Pozsony), nhưng nó bị đóng cửa năm 1490 sau khi ông qua đời.[28]

Sau khiĐế chế Ottoman mở rộng tới Hungary và sự chiếm đóngBuda đầuthế kỷ XVI, trung tâm của Vương quốc Hungary (dưới cái tênHoàng gia Hungary) chuyển tới Pozsony (trong tiếng Slovakia: Prespork ở thời điểm đó, hiện là Bratislava) trở thành thành phố thủ đô củaHoàng gia Hungary năm 1536. Nhưngcác cuộc chiến tranh Ottoman và những cuộc nổi dậy sau đó chống lạiTriều đình Habsburg cũng gây nên sự phá hoại rất lớn, đặc biệt tại các vùng nông thôn. Khingười Thổ Nhĩ Kỳ rút khỏi Hungary hồi cuối thế kỷ XVII, tầm quan trọng của vùng đất gồm Slovakia hiện đại ngày nay giảm bớt, dù Bratislava vẫn giữ được vị thế thủ đô Hungary cho tới năm 1848, khi nó được chuyển choBuda.

Trong cuộccách mạng năm 1848–49 người Slovak ủng hộHoàng đế Áo, với hy vọng có được độc lập từ Hungary, một phần củaTriều đình Kép, nhưng họ đã không đạt mục tiêu.[cần dẫn nguồn] Sau đó quan hệ giữa các quốc gia xấu đi (xemHungary hoá), lên tới đỉnh điểm là sự ly khai của Slovakia khỏi Hungary sauThế chiến I.[29]

Tiệp Khắc giữa hai cuộc chiến

[sửa |sửa mã nguồn]
Milan Rastislav Štefánik

Năm 1918, Slovakia và các vùngBohemiaMoravia thành lập một nhà nước chung,Tiệp Khắc, với các biên giới được xác nhận theoHiệp ước Saint GermainHiệp ước Trianon. Năm 1919, trong thời gian hỗn loạn sau sự tan rã của Áo-Hung, Tiệp Khắc được thành lập với nhiều người Đức và người Hungary bên trong lãnh thổ mới được lập ra của họ. Một người Slovak yêu nướcMilan Rastislav Štefánik (1880–1919), đã giúp tổ chức các trung đoàn Tiệp Khắc chống Áo-Hung trong Thế chiến I, thiệt mạng trong một vụ đâm máy bay trong cuộc chiến này. Trong thời kỳ hoà bình sau cuộc Thế chiến, Tiệp Khắc xuất hiện như một nhà nước châu Âu có chủ quyền.[cần dẫn nguồn]

Tronggiai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến, Tiệp Khắc dân chủ là đồng minh vớiPháp, và vớiRomâniaNam Tư (Little Entente); tuy nhiên,Các hiệp ước Locarno năm 1925 khiến anh ninhĐông Âu còn để ngỏ. Cả người Séc và người Slovak đều có một giai đoạn khá thịnh vượng. Không chỉ ở quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, mà cả ở văn hoá và các cơ hội giáo dục. Cộng đồng Đức thiểu số chấp nhận vai trò của họ trong quốc gia mới và các quan hệ với Áo khá tốt. Tuy thế cuộcĐại giảm phát đã gây ra sựsuy giảm kinh tế, tiếp theo là sự tan rã chính trị và mất an ninh ở châu Âu.[30]

Sau đó Tiệp Khắc ở dưới áp lực liên tục từ các chính phủxét lại của Đức và Hungary. Cuối cùng việc này đã dẫn đếnThoả thuận Munich vào tháng 9 năm 1938, cho phép Đức Phát xít chia cắt một phần lãnh thổ đất nước bằng cách chiếm đóng cái gọi làSudetenland, một vùng có đa sốngười nói tiếng Đức giáp với biên giới Đức và Áo. Phần còn lại của Tiệp Khắc được đổi tên thànhCzecho-Slovakia và người Slovak có mức độ tự chủ chính trị lớn hơn. Tuy nhiên, vùng phía nam và phía đông Slovakia, bị Hungary tuyên bố chủ quyền tạiHội đồng trọng tài Vienna lần thứ nhất tháng 11 năm 1938.[cần dẫn nguồn]

Thế chiến II

[sửa |sửa mã nguồn]

Sau Thoả thuận Munich và Hội đồng trọng tài Vienna của họ,Phát xít Đức đe doạ sáp nhập một phần Slovakia và cho phép các vùng còn lại được phân chia bởi Hungary hay Ba Lan trừ khi họ tuyên bố độc lập. Vì thế, Slovakia ly khai khỏi Tiệp Khắc vào tháng 3 năm 1939 và liên kết, theo yêu cầu của Đức, với liên minh củaHitler.[31] Chính phủĐệ Nhất Cộng hoà Slovak, dưới sự lãnh đạo củaJozef TisoVojtech Tuka, bị ảnh hưởng mạnh từ Đức và dần trở thành mộtchế độ bù nhìn ở nhiều khía cạnh. Hầu hếtngười Do Thái bị trục xuất khỏi đất nước và bị đưa tới các trại lao động tại Đức, tuy nhiên hàng nghìn người Do Thái vẫn ở lại trong các trại lao động tại Slovak ở Sered, Vyhne, và Nováky.[32] Tiso, nhờ có thể trao quyền miễn trừ của tổng thống, được cho là đã cứu tới 40,000 người Do thái trong thời gian cuộc chiến, dù những ước tính khác cho rằng con số đó là khoảng 4,000 hay thậm chí chỉ 1,000.[33] Tuy nhiên, dưới chế độ chính phủ Tiso 83% người Do thái tại Slovakia, trong tổng cộng 75,000 người, đã bị giết hại.[34] Tiso trở thành lãnh đạo châu Âu duy nhất thực tế trả cho chính quyền Đức để trục xuất người Do Thái trong nước ông.[35][36]Sau khi rõ ràng rằngHồng quânNga đang đẩy lùi quân Phát xít khỏi đông và trung Âu, mộtphong trào kháng chiến xuất hiện với sự phản công vũ trang mạnh mẽ, được gọi làKhởi nghĩa Quốc gia Slovak, năm 1944. Một thời kỳ chiếm đóng đẫm máu của Đức và một cuộcchiến tranh du kích diễn ra sau đó.

Cầm quyền của Đảng Cộng sản

[sửa |sửa mã nguồn]

SauThế chiến II, Tiệp Khắc được tái lập và Jozef Tiso bị treo cổ năm 1947 vì tội hợp tác với Phát xít. Hơn80,000 người Hungary[37] và 32,000 người Đức[38] bị buộc phải rời Slovakia, trong một loạt các cuộcdi chuyển dân số theo sáng kiến của Đồng Minh tạiHội nghị Potsdam.[39] Sự trục xuất này vẫn là một nguồn gốc gây căng thẳng giữa Slovakia và Hungary.[40] Trong số khoảng 130,000người Đức Carpathian tại Slovakia năm 1938, đến năm 1947 chỉ còn khoảng 20,000 người ở lại.[41]

Tiệp Khắc rơi vào tầm ảnh hưởng củaLiên XôKhối hiệp ước Warszawa của họ sau một cuộc đảo chính năm 1948. Nước này bịchiếm đóng bởi các lực lượng Khối Warszawa (ngoại trừRomânia) năm 1968, chấm dứt mộtgiai đoạn tự do hoá dưới sự lãnh đạo củaAlexander Dubček. Năm 1969, Tiệp Khắc trở thành mộtliên bang gồmCộng hoà Xã hội chủ nghĩa SécCộng hoà Xã hội chủ nghĩa Slovak.

Thành lập Cộng hoà Slovak

[sửa |sửa mã nguồn]

Chế độ cộng sản cầm quyền tại Tiệp Khắc chấm dứt năm 1989, sau cuộcCách mạng Nhung hoà bình, một lần nữa quốc gia lại bị giải tán, lần này thành hainhà nước kế tục. Tháng 7 năm 1992 Slovakia, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướngVladimír Mečiar, tuyên bố mình là một nhà nước có chủ quyền, có nghĩa luật pháp của họ được ưu tiên hơn luật pháp của chính phủ liên bang. Trong mùa thu năm 1992, Mečiar vàThủ tướng SécVáclav Klaus đã đàm phán các chi tiết về việc giải tán liên bang. Tháng 11 nghị viện liên bang bỏ phiếu chính thức giải tán đất nước vào ngày 31 tháng 12 năm 1992. Slovakia và Cộng hoà Séc trở thành hai quốc gia độc lập kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1993, một sự kiện thỉnh thoảng được gọi là sựLy hôn Nhung. Slovakia vẫn là một đối tác chặt chẽ với Cộng hoà Séc, cả hai nước hợp tác với Hungary và Ba Lan trongNhóm Visegrád. Slovakia trở thành một thành viên củaNATO ngày29 tháng 3 năm2004 và củaLiên minh châu Âu ngày1 tháng 5 năm2004. Ngày1 tháng 1 năm2009, Slovakia chấp nhận đồngEuro trở thành đồng tiền tệ quốc gia.

Địa lý

[sửa |sửa mã nguồn]
Một bản đồđịa hình Slovakia
Bài chi tiết:Địa lý Slovakia
Xem thêm:Phân chia địa mạo Slovakia
High Tatras

Phong cảnh Slovak chủ yếu là núi non, với dãynúi Karpat chạy suốt hầu hết nửa phía bắc đất nước. Trong số nhữngrặng núi đó có những đỉnh củadãy núi Tatra. Ở phía bắc, gần biên giới Ba Lan, làHigh Tatras địa điểmtrượt tuyết nổi tiếng và là nơi có nhiều hồ cùng thung lũng đẹp cũng như các điểm cao nhất Slovakia,Gerlachovský štít ở độ cao 2,655 mét (8,711 ft), và ngọn núi mang tính biểu tượng quốc giaKriváň.

Các con sông chính của Slovakia làDanube,VáhHron. SôngTisa là biên giới Slovak-Hungary với đoạn chỉ kéo dài 5 km.

Khí hậu Slovak ở giữa các vùng khí hậu ôn hoà vàkhí hậu lục địa với mùa hè khá ấm và mùa đông lạnh, ẩm, nhiều mây. Lãnh thổ Slovakia có thể chia thành ba vùng khí hậu và vùng thứ nhất lại có thể được chia thành hai vùng nhỏ.

Khí hậu những vùng đất thấp

[sửa |sửa mã nguồn]
Gerlachovský štít (2655 m), highest peak in Slovakia

Nhiệt độ trung bình năm khoảng 9–10 °C. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất khoảng 20 °C và nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất lớn hơn −3 °C. Kiểu thời tiết này xảy ra tạiZáhorská nížinaPodunajská nížina. Đây là khí hậu đặc trưng của thành phố thủ đô Bratislava.[42]

Khí hậu các vùng châu thổ

[sửa |sửa mã nguồn]

Nhiệt độ trung bình năm trong khoảng 5 °C đến 8.5 °C. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất trong khoảng 15 °C và 18.5 °C và nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất trong khoảng −3 °C và −6 °C. Kiểu khí hậu này có thể tháy ở hầu hết mọi vùng châu thổ tại Slovakia. Ví dụ Podtatranská kotlina, Žilinská kotlina, Turčianska kotlina, Zvolenská kotlina. Đây là khí hậu đặc trưng của các thị trấnPoprad[43]Sliač.[44]

Khí hậu vùng núi

[sửa |sửa mã nguồn]

Nhiệt độ trung bình năm chưa tới 5 °C. Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất chưa tới 15 °C và nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất chưa tới −5 °C. Kiểu khí hậu này diễn ra tại các vùng núi và một số làng trong thung lũngOravaSpiš.

Chính trị

[sửa |sửa mã nguồn]
Phủ Tổng thống Slovakia tạiBratislava
Bài chi tiết:Chính trị Slovakia

Slovakia là một nền cộng hoàdân chủ nghị viện với mộthệ thống đa đảng. Cuộcbầu cử gần nhất được tổ chức ngày 17 tháng 6 năm 2006 và hai vòng của cuộcbầu cử tổng thống diễn ra ngày 3 tháng 4 và 17 tháng 4 năm 2004.

Nguyên thủ quốc gia Slovak là tổng thống (Ivan Gašparovič, 2004 – 2009), được bầu trực tiếp theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ năm năm. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và là người lãnh đạo chính thức của nhánh hành pháp, dù với quyền lực rất hạn chế. Hầu hết quyềnhành pháp thuộclãnh đạo chính phủ, thủ tướng (Robert Fico, 2006 – 2010), thường là lãnh đạo đảng thắng cử, nhưng ông/bà ta cần hình thành mộtliên minh đa số trong nghị viện. Thủ tướng được tổng thống chỉ định. Tất cả thành viên khác trongnội các cũng được tổng thống chỉ định theo giới thiệu của thủ tướng.

Cơ quanlập pháp cấp cao nhất của Slovakia làHội đồng Cộng hoà Slovak (Národná rada Slovenskej republiky)đơn viện. Các đại biểu được bầu với nhiệm kỳ bốn năm trên cơ sởđại diện tỷ lệ.Cơ quan hành pháp cấp cao nhất của Slovakia làToà án Hiến pháp Slovakia (Ústavný súd), xét xử các vấn đề vềhiến pháp. 13 thành viên của Toà án này do Tổng thống chỉ định từ một danh sách ứng cử viên do nghị viện đề nghị.

Slovakia là một quốc gia thành viênLiên minh châu ÂuNATO từ năm 2004. Là một thành viên củaLiên hiệp quốc (từ năm 1993), ngày 10 tháng 10 năm 2005, Slovakia được bầu làm thành viênHội đồng Bảo an Liên hiệp quốc với nhiệm kỳ hai năm từ 2006 đến 2007. Slovakia cũng là một thành viên củaWTO,OECD,OSCE, và các tổ chức quốc tế khác.

Một việc gây tranh cãi,Các nghị định Beneš, theo đó, sau Thế chiến II, dân cư người Đức và Hungary tại Tiệp Khắc bị quy trách nhiệm có tội trong Thế chiến II, bị tước bỏ quyền công dân, và nhiều người bị trục xuất, vẫn chưa được phục hồi.

Hiến pháp Cộng hoà Slovak được phê chuẩn ngày1 tháng 9 năm1992, và có hiệu lực từ ngày1 tháng 1 năm1993). Nó được sửa đổi vào tháng 9 năm 1998 để cho phépbầu cử trực tiếp tổng thống và một lần nữa vào tháng 2 năm 2001 vì các yêu cầu chấp nhận gia nhập của EU.Hệ thống luật dân sự dựa trên các điều luật của Áo-Hung.Luật pháp đã được sửa đổi để tương tích với các quy định củaTổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE) và để xoá bỏlý thuyết pháp luậtMarxist-Leninist. Slovakia chấp nhận tính pháp lý củaToà án Công lý Quốc tế với sự bảo lưu.

Liên minh chính phủ ở thời điểm tháng 7 năm 2006 gồmSmer,SNS (nổi tiếng về khuynh hướng phát xít công khai và một lập trường chống các sắc tộc thiểu số)[45] andHZDS.

Phân cấp hành chính

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Vùng của SlovakiaQuận của Slovakia
Bratislava

Slovakia được chia thành 8vùng, mỗi vùng có một thủ phủ. Các vùng được phân quyền tự trị từ năm 2002. Mỗi vùng được chia thành các quận, mỗi quận được chia thành các xã. Hiện tại, Slovakia có 79 quận và 2.890 xã.

Cơ quan chính quyền địa phương tự trị được gọi là Vùng tự trị hoặc Đơn vị lãnh thổ cấp cao.

Vềkinh tếtỷ lệ thất nghiệp, các vùng phía tây giàu có hơn các vùng phía đông; tuy nhiên sự khác biệt tương đối không lớn hơn hầu hết các quốc gia EU cũng có các vùng khác biệt.

VùngThủ phủDân số (2021)
Vùng BratislavaBratislava719,537
Vùng TrnavaTrnava566,008
Vùng NitraNitra677,900
Vùng TrenčínTrenčín577,464
Vùng ŽilinaŽilina691,613
Vùng Banská BystricaBanská Bystrica625,601
Vùng PrešovPrešov808,931
Vùng KošiceKošice782,216

Kinh tế

[sửa |sửa mã nguồn]
Trụ sởNgân hàng Quốc gia Slovakia tại Bratislava
Quận hành chính
Bài chi tiết:Kinh tế Slovakia

Kinh tế Slovakia được coi là một nềnkinh tế tiên tiến, và nước này được gọi là một conHổ Tatra. Slovakia đã chuyển từ một nềnkinh tế kế hoạch tập trung sang một nền kinh tế thị trường. Các chương trìnhtư nhân hoá lớn hầu như đã hoàn tất, lĩnh vựcngân hàng hầu như nằm trong tay tư nhân, và khoản đầu tư nước ngoài đã tăng lên.

Gần đây Slovakia nổi bật nhờ có mứctăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Năm 2006, Slovakia có mức tăng trưởngGDP (8.9%) cao nhất trong số các thành viênOECD. Tăng trưởng GDP năm 2007 được ước tính ở mức 10.4% với một mức kỷ lục 14.3% đạt được ở quý bốn.[46] Theo dữ liệu củaEurostat, GDP theo sức mua tương đương trên đầu người của Slovakia đứng ở mức 72% so với mức trung bình của EU năm 2008.[47]

Thất nghiệp, lên tới đỉnh điểm ở mức 19.2% cuối năm 1999, đã giảm xuống 7.51% vào tháng 10 năm 2008 theo Văn phòng Thống kê của Cộng hoà Slovak.[48] Ngoài tăng trưởng kinh tế, di cư công nhân tới các quốc gia EU khác cũng góp phần vào sự sụt giảm này. TheoEurostat, vốn sử dụng cách tính khác biệt so với cách tính của Văn phòng Thống kê Cộng hoà Slovak, tỷ lệ thất nghiệp vẫn đứng ở mức cao thứ hai sau Tây Ban Nha trong nhóm EU-15, với 9.9%.[49]

Lạm phát đã giảm từ mức trung bình năm 12.0% năm 2000 xuống chỉ còn 3.3% trong năm bầu cử 2002, nhưng tăng lại vào năm 2003–2004 vì chi phí nhân công tăng và thuế cao. Đạt mức 3.7% năm 2005.

Slovakia đã chấp nhận đồngeuro vào ngày 1 tháng 1 năm 2009 và là thành viên thứ 16 củaEurozone. Đồng euro tại Slovakia đã đượcHội đồng châu Âu thông qua ngày 7 tháng 5 năm 2008. ĐồngSlovenská koruna được định giá lại ngày 28 tháng 5 năm 2008 ở mức 30.126 cho 1 euro,[50] đây cũng là tỷ giá trao đổi với đồng euro.[51]

Xem thêm:Tiền xu euro Slovakia

Slovakia là một đất nước hấp dẫnđầu tư nước ngoài chủ yếu bởi mức lương thấp, thuế thấp vàlực lượng lao động có đào tạo. Những năm gần đây, Slovakia đã theo đuổi một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài.FDI đã tăng hơn 600% từ năm 2000 và lên tới đỉnh điểm ở mức $17.3 tỷ USD năm 2006, hay khoảng $22,000 trên đầu người cuối năm 2008.

Dù có đủ số lượng các nhà nghiên cứu và một hệ thốnggiáo dục tốt, Slovakia, cùng với các quốc giahậu Cộng sản khác, vẫn phải đối mặt với các thách thức trong lĩnh vựckinh tế trí thức. Chi phínghiên cứu và phát triển kinh doanh và công cộng ở mức thấp hơn mức trung bình của EU.Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế, được điều phối bởiOECD, hiện xếpgiáo dục cấp hai của Slovakia ở hạng 30 trong bảng xếp hạng (ngay dưới Hoa Kỳ và trên Tây Ban Nha).[52]

Tháng 3 năm 2008, Bộ Tài chính thông báo rằng kinh tế Slovakia đã phát triển đủ để ngừng nhận viện trợ từNgân hàng Thế giới. Slovakia đã trở thành một nước cung cấp viện trợ từ cuối năm 2008.[53]

Tính đến năm 2016, GDP của Slovakia đạt 90.263 USD, đứng thứ 65 thế giới và đứng thứ 23 châu Âu.

Công nghiệp

[sửa |sửa mã nguồn]
Kia cee'd, sản xuất tạiŽilina

Dù GDP của Slovakia chủ yếu từ lĩnh vực dịch vụ, ngành công nghiệp của nước này cũng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các lĩnh vực công nghiệp chính là sản xuấtô tôkỹ thuật điện. Từ năm 2007, Slovakia đã trở thành nhà sản xuất xe hơi lớn nhất thế giới tính theo đầu người,[54] với tổng số 571,071 chiếc xe được sản xuất trong nước riêng trong năm 2007.[54] Hiện có ba nhà sản xuất chính:Volkswagen tạiBratislava,PSA Peugeot Citroen tạiTrnavaKia Motors tạiŽilina.

Về các công ty điện tử,Sony có một nhà máy tạiNitra sản xuấtLCD TV,Samsung tạiGalanta sản xuấtmàn hình máy tính và các bộ linh kiện TV.

Vị trí địa lý củaBratislava ở Trung Âu từ lâu đã khiến Bratislava trở thành ngã tư trên các con đườngthương mại quốc tế.[55][56] Nhiều tuyếnđường thương mại cổ, nhưĐường Amber và tuyến đường thủyDanube đã đi qua vùng Bratislava hiện nay. Bratislava ngày nay là một đầu mối đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không.[57]

Cơ sở hạ tầng

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Giao thông Slovakia

Đường bộ

[sửa |sửa mã nguồn]
Hlavná ulica (Phố chính) tạiKošice

Bratislava là một điểm nút đường cao tốc quốc tế lớn:Đường cao tốc D1 nối Bratislava vớiTrnava,Nitra,Trenčín,Žilina và các địa điểm ở xa hơn, trong khiĐường cao tốc D2, chạy theo hướng bắc nam, nối thành phố này vớiPraha,BrnoBudapest.Đường cao tốc D4 (đường vòng phía ngoài), sẽ làm giảm áp lực trên hệ thống đường cao tốc của thành phố, hầu như mới ở giai đoạn lập kế hoạch.

Đường cao tốc A6 tớiViên nối trực tiếp Slovakia với hệ thống đường cao tốc Áo và mở cửa ngày 19 tháng 11 năm 2007.[58]

Cầu Apollo

Hiện tại, có năm cây cầu bắc qua sôngDanube (thứ tự theo dòng chảy):Lafranconi Bridge,Nový Most (Cầu Mới),Starý most (Cầu Cũ),Most ApolloPrístavný most (Cầu Cảng).

Mạng lưới đường bộ bên trong thành phố được làm theo hình tròn xuyên tâm. Hiện nay, giao thông đường bộ tại Bratislava đang phát triển nhanh chóng, tăng áp lực lên mạng lưới đường. Có khoảng 200,000 xe đăng ký tại Bratislava, (xấp xỉ 2 người trên mỗi chiếc xe).[57]

Ga đường sắt Ružomberok

Hàng không

[sửa |sửa mã nguồn]
Sân bay quốc tế Bratislava

Sân bay M. R. Štefánik tại Bratislava làsân bay quốc tế chính tại Slovakia. Nó nằm cách trung tâm thành phố 9kilômét (5.59dặm). Đây là nơi đón tiếp các chuyến bay dân sự và chính phủ, các chuyến bay nội địa và quốc tế định kỳ và không định kỳ. Các đường băng hiện thích hợp cho mọi loại máy bay đang được sử dụng. Sân bay có lượng hành khách gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây; năm 2000 sân bay phục vụ 279,028 hành khách, 1,937,642 hành khách năm 2006 và 2,024,142 năm 2007.[59] Smaller airports served by passenger airlines include those inKošicePoprad.

Đường sông

[sửa |sửa mã nguồn]

Cảng Bratislava là một trong haicảng đường sông quốc tế tại Slovakia. Cảng nối Bratislava với các tuyến đường biển quốc tế, đặc biệt là nối từBiển Bắc đếnBiển Đen quaKênh Rhine–Main–Danube. Ngoài ra, các tuyến đường du lịch cũng hoạt động từ cảng hành khách Bratislava, gồm các tuyến đường tớiDevín,Viên và những nơi khác.


Du lịch

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Du lịch Slovakia
CablewayJasná
Slovakia là mộtđiểm trượt tuyết tốt ở châu Âu

Slovakia có nhiều địa điểm tự nhiên, các dãy núi, hang động, các lâu đài trung cổ, các thị trấn, kiến trúc dân gian, các khu spa và các khu trượt tuyết. Hơn 1.6 triệu du khách tới thăm Slovakia năm 2006, và các địa điểm thu hút nhiều du khách nhất là thành phốBratislavaHigh Tatras.[60] Hầu hết khách du lịch tới từ Cộng hoà Séc (khoảng 26%), Ba Lan (15%) và Đức (11%).[61] Các món quà tặng đặc trưng từ Slovakia là những con búp bê mặt trang phục truyền thống, các đồ sành sứ, pha lê, tượng gỗ khắc,črpák (bình đựng nước bằng gỗ),fujara (một nhạc cụ truyền thống trong danh sách của UNESCO) vàvalaška (một loại rìu dân gian khắc) và hơn hết là các sản phẩm làm từvỏ ngô và dây, đáng chú ý nhất là các hình người. Những đồ quà tặng có thể được mua tại các cửa hàng của tổ chức nhà nước ÚĽUV (Ústredie ľudovej umeleckej výroby – Trung tâm sản xuấtnghệ thuật dân gian). Dãy cửa hàngDielo bán các đồ chế tạo của các nghệ sĩ và thợ thủ công Slovak. Những cửa hàng này hầu hết có mặt tại các thị trấn và các thành phố. Giá cả các mặt hàng nhập khẩu nói chung tương đương với các nước láng giềng, trong khi giá các mặt hàng địa phương và các loại dịch vụ, đặc biệt là thực phẩm, thường thấp hơn.

Khoa học

[sửa |sửa mã nguồn]
Jozef Murgaš

Một số người Slovak đã có những đóng góp đáng chú ý về kỹ thuật.Jozef Murgaš góp phần vào sự phát triểnđiện báo không dây[cần dẫn nguồn];Ján Bahýľ đã chế tạo một trong những chiếc trực thăng hoạt động bằng động cơ đầu tiên[cần dẫn nguồn];Štefan Banič chế tạo chiếc dù được sử dụng nhiều trong thực tế đầu tiên;[62]Aurel Stodola đã chế tạo một vũ khí sinh học năm 1916 và là người tiên phong trong lĩnh vựcturbine hơn nước và gas.[63] Gần đây hơn,John Dopyera đã chế tạo một chiếcđàn guitar cộng hưởng, một đóng góp quan trọng vào việc phát triểnnhạc cụ dây[cần dẫn nguồn].

Nhà du hành vũ trụ MỹEugene Cernan (Čerňan), người cuối cùng tới Mặt Trăng, có nguồn gốc Slovak.Ivan Bella là công dân Slovak đầu tiên vào vũ trụ[cần dẫn nguồn], đã tham gia vào phi vụ hỗn hợp Nga-Pháp-Slovak kéo dài 9 ngày trêntrạm vũ trụMir năm 1999[cần dẫn nguồn].

Những người đoạtGiải NobelDaniel GajdusekDavid Politzer cũng có tổ tiên Slovak[cần dẫn nguồn].

Nhân khẩu

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Nhân khẩu Slovakia
Thống kê dân số (10 năm)[64]
Năm1994200420142024
Số lượng người5.356.2075.384.8225.421.3495.419.451
Sự khác biệt+0,53%+0,67%−0,03%
Thống kê dân số[64]
Năm20232024
Số lượng người5.424.6875.419.451
Sự khác biệt−0,09%
Mật độ dân số của Slovakia.Bratislava ở phía tây vàKošice ở phía đông có mật độ dân số cao nhất.

Đa số dân sống tại Slovakia làngười Slovak (85,8%).người Hungarysắc tộc thiểu số lớn nhất (9,5%). Cácnhóm sắc tộc khác, theo cuộc điều tra dân số năm 2001, gồmngười Di-gan 1,7%,[65]Người Rusyn hayngười Ukraina 1%, và các nhóm khác hay không xác định 1.8%.[66] Những ước tính không chính thức về số người Di-gan lớn hơn, khoảng 9%.[67]

Ngôn ngữ chính thứctiếng Slovak, một thành viên củanhóm ngôn ngữ Slavơ.Tiếng Hungary được sử dụng rộng rãi tại các vùng phía nam vàtiếng Ruthenia từng được dùng tại một số vùng đông bắc. Các ngôn ngữ thiểu số cũng có vị thế đồng chính thức tại các khu đô thị nơi cộng đồng dân cư thiểu số đạt mức quy định 20%.[68]

Năm 2007, Slovakia ước tính cótổng tỷ suất sinh 1.33.[66] (ví dụ, một phụ nữ trung bình sẽ có 1.33 con trong đời), khá thấp dướingưỡng thay thế và là một trong những tỷ lệ thấp nhất trong số cácquốc gia EU.

Năm 1990, theo cuộcĐiều tra dân số Hoa Kỳngười Mỹ gốc Slovak chiếm tỷ lệ lớn thứ hai trong các nhóm sắc tộcSlavơ. Cũng theo cuộc điều tranày khoảng 1.8 triệu người Mỹ có tổ tiên là người Slovak.[69]

Tôn giáo

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Tôn giáo Slovakia

Tôn giáo tại Slovakia (2011)[70]

  Công giáo Roma (62%)
  Công giáo Roma Hy Lạp (3.8%)
  Tin Lành (8.9%)
  Chính thống giáo (0.9%)
  Nhân chứng Jehovah (0.3%)
  Khác (0.5%)
  Thuyết vật linh (13.4%)
  Không xác định (10.6%)

Hiến pháp Slovakia đảm bảo quyềntự do tôn giáo. Đa số công dânSlovak (68.9%) tự coi mình là tín đồCông giáo Rôma, hay có tổ tiên Công giáo Rôma. Dù số lượng người tới nhà thờ thấp hơn con số này. Đất nước này có tỷ lệ người vô thần ở mức trung bình củachâu Âu, khoảng 40% hiện tại làvô thần haybất khả tri theo 2004 Eurobarometer do phái bộ châu Âu xuất bản. Khoảng 6.93% tự nhận là người theoGiáo hội Luther, 4.1%Chính Thống giáo Hy Lạp, và 2.0% tin vàoThần học Calvin. Khoảng 0.9% dân số là tín đồChính Thống giáo Đông phương, và các thành viên của các nhà thờ khác, gồm cả những người không đăng ký, chiếm khoảng 1.1% dân số. Tuy trướcThế chiến II nước này có sốngười Do Thái khoảng 90,000, nhưng ngày nay chỉ còn khoảng 2,300 người.[71]

Văn hoá

[sửa |sửa mã nguồn]
Xem thêmDanh sách nhân vật Slovak
Nhà hát quốc gia

Nghệ thuật Slovakia có thể truy nguồn gốc từthời Trung Cổ, khi một số trong những tuyệt tác lớn nhất trong lịch sử quốc gia được sáng tác. Các nhân vật đáng chú ý của thời kỳ này gồm nhiều bậc thầy, trong số đó cóMaster Paul of LevočaMaster MS.Nghệ thuật đương đại gần đây hơn có các nhân vậtKoloman Sokol,Albín Brunovský,Martin Benka,Mikuláš Galanda, vàĽudovít Fulla. Những nhà soạn nhạc quan trọng nhất Slovakia làEugen Suchoň,Ján Cikker, vàAlexander Moyzes, ở thế kỷ XXI làVladimir GodarPeter Machajdik.

Slovakia cũng nổi tiếng về các học giả của mình, trong đó cóPavol Jozef Šafárik,Matej Bel,Ján Kollár, và các nhà cách mạng và cải cách chính trị nhưMilan Rastislav ŠtefánikAlexander Dubček.

Những người Slovak nổi tiếng

Có hai nhân vật hàng đầu đã hệ thống hoá ngôn ngữ Slovak. Người đầu tiên làAnton Bernolák với ý tưởng của ông dựa trênphương ngữ tây Slovak năm 1787. Đây là sự hệ thống hoá của ngôn ngữ văn học đầu tiên của người Slovak. Người thứ hai làĽudovít Štúr, ông đã lập ra ngôn ngữ Slovak dựa trên các nguyên tắc từ phương ngữ trung Slovak năm 1843.

Anh hùng nổi tiếng nhất Slovakia làJuraj Jánošík (một người hùng kiểuRobin Hood của Slovakia). Nhà thám hiểm nổi tiếngMóric Benyovszky cũng có tổ tiên là người Slovak.

Về thể thao, những người Slovak có lẽ nổi tiếng nhất (tại Bắc Mỹ) nhờ các ngôi sao môn hockey của họ, đặc biệt làStan Mikita,Peter Šťastný,Peter Bondra,Žigmund PálffyMarián Hossa. Để có một danh sách xemDanh sách nhân vật Slovak.

Jozef Miloslav Hurban

Về một danh sách các tác gia và nhà thơ Slovak, xemDanh sách các tác gia Slovak.

Văn học

[sửa |sửa mã nguồn]

Các chủ đề Kitô giáo gồm: bài thơProglas như là một lời mở đầu cho bốnSách Phúc Âm, những bản dịch một phần củaKinh thánh sangngôn ngữ Nhà thờ Slavơ Cổ,Zakon sudnyj ljudem, vân vân.

Văn học trung cổ, ở giai đoạn từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV, được viết bằngtiếng Latin, các ngôn ngữ Séc và Séc slovakia hoá. Lời (lời cầu nguyện, những bài hát và các cách thức) vẫn thuộc kiểm soát của nhà thờ, trong khi chủ đề tập trung trên các huyền thoại. Các tác gia của thời kỳ này gồmJohannes de Thurocz, tác giả củaChronica HungarorumMaurus, cả hai đều là người Hungary.[72] Văn học trần tục cũng xuất hiện và các cuốn biên niên sử cũng được viết trong giai đoạn này.

Ẩm thực

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Ẩm thực Slovakia
Bryndzové halušky, đặc sản quốc gia Slovak

Thịt lợn,thịt bòthịt gà là ba loại thịt chính được tiêu thụ ở Slovakia, và thịt lợn là phổ biến nhất. Gà là loại gia cầm được tiêu thụ nhiều nhất, tiếp đó là vịt, ngỗng và gà tây. Mộtdồi lợn được gọi là jaternice, được làm từ mọi phần của lợn, cũng được tiêu thụ nhiều. Thịt săn, đặc biệt là lợn lòi, thỏ và thịt nai, cũng có trong cả năm. Thịt cừu và dê cũng được tiêu thụ, nhưng không rộng rãi.

Rượu được tiêu thụ trên khắp Slovakia. Rượu Slovak chủ yếu tới từ các vùng phía nam dọc sông Danube và các phụ lưu; nửa phía bắc đất nước quá lạnh và nhiều đồi núi để trồng nho. Theo truyền thống, rượu trắng được dùng nhiều hơn rượu đỏ hay rosé (ngoại trừ ở một số vùng), vàrượu ngọt phổ biến hơn rượu nặng, nhưng những năm gần đây thị hiếu dường như đang thay đổi.[73]Beer (chủ yếu theo kiểupilsener, dùbia đen cũng được tiêu thụ) cũng phổ biến trên cả nước.

Âm nhạc

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Âm nhạc Slovakia
Ján Levoslav Bella

Âm nhạc đại chúng bắt đầu thay thếâm nhạc dân gian từ những năm 1950, khi Slovakia vẫn còn là một phần củaTiệp Khắc;nhạc jazz,R&B, vàrock and roll Mỹ cũng phổ biến, bên cạnh đó làwaltz,polka, vàczardas, cùng với các hình thức nhạc dân gian khác. Cuối những năm '50, radio là vật thường thấy trong các gia đình, dù chỉ có các đài phát thanh nhà nước. Âm nhạc đại chúng Slovak bắt đầu như một sự tổng hợpbossa nova,cool jazz, và rock, với lời mang tínhtuyên truyền. Những người bất mãn ngheORF (Austrian Radio),Radio Luxembourg, haySlobodna Europa (Radio Free Europe), với nhiều bản nhạc rock hơn. Vì sự cách biệt của Tiệp Khắc,thị trường trong nước sôi động và nhiều ban nhạc trong nước xuất hiện. Slovakia có một nềnvăn hoá pop mạnh trong thập niên 70 và 80. Chất lượng âm nhạc xã hội rất cao. Các ngôi sao nhưKarel Gott, Olympic, Elan, Modus, Prazsky Vyber, Tublatanka, Team và nhiều người khác rất được ca ngợi và nhiều người ghi các LP của họ bằngtiếng nước ngoài.

SauCách mạng Nhung và tuyên bố thành lập nhà nước Slovak, thị trường âm nhạc trong nước phát triển mạnh khicác doanh nghiệp tự do khuyến khích việc thành lập các ban nhạc mới và sự phát triển của các loại âm nhạc mới. Tuy nhiên, ngay lập tức nhiềunhãn hiệu lớn đã đưanhạc pop tới Slovakia và khiến nhiều công ty nhỏ phá sản. Thập niên 1990, Americangrungealternative rock, vàBritpop có rất nhiều người hâm mộ, cũng như một sự nhiệt tình mới vớinhạc kịch.

Xem thêm

[sửa |sửa mã nguồn]
Bài chi tiết:Đề cương Slovakia

Ngày nghỉ lễ

[sửa |sửa mã nguồn]

Các chủ đề linh tinh

[sửa |sửa mã nguồn]

Ghi chú

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^excluding the unspecified population which counts 295,558 people or 5.4%

Tham khảo

[sửa |sửa mã nguồn]
  1. ^"SODB2021 – Population – Basic results".Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2022.
  2. ^"SODB2021 – K rímskokatolíckemu vyznaniu sa prihlásilo 56 % obyvateľov".Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2022.
  3. ^"Stock of population in the SR on 31 December 2024".slovak.statistics.sk. Statistical Office of the Slovak Republic. ngày 7 tháng 3 năm 2025. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2025.
  4. ^"2021 Population and Housing Census".scitanie.sk. Statistical Office of the Slovak Republic. ngày 20 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2024.
  5. ^"Surface water and surface water change". Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD).Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
  6. ^abcd"World Economic Outlook Database, October 2024 Edition. (Slovakia)".www.imf.org.International Monetary Fund. ngày 22 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2024.
  7. ^"Gini coefficient of equivalised disposable income – EU-SILC survey".ec.europa.eu.Eurostat.Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023.
  8. ^"Human Development Report 2025"(PDF) (bằng tiếng Anh).United Nations Development Programme. ngày 6 tháng 5 năm 2025.Lưu trữ(PDF) bản gốc ngày 6 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2025.
  9. ^"United Nations Statistics Division- Standard Country and Area Codes Classifications (M49)". Unstats.un.org. ngày 15 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2009.
  10. ^"World Population Prospects Population Database". Esa.un.org.Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2009.
  11. ^Dixon-Kennedy, Mike (1998).Encyclopedia of Russian & Slavic myth and legend. ABC-CLIO. tr. 375.ISBN 978-1-57607-130-4. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2009.
  12. ^Karl Julius Schröer,Die deutschen Mundarten des ungrischen Berglandes (1864)
  13. ^"Which countries are most generous to new parents?".The Economist. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2017.
  14. ^"Slovakia beats record in car production, again". ngày 13 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2020.
  15. ^Benda, Kálmán (editor) (1981).Magyarország történeti kronológiája("The Historical Chronology of Hungary"). Budapest: Akadémiai Kiadó. tr. 44.ISBN 963 05 2661 1.{{Chú thích sách}}:|first= có tên chung (trợ giúp)
  16. ^. tr. 30–31.{{Chú thích sách}}:|title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  17. ^. tr. 360.{{Chú thích sách}}:|title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  18. ^Kristó, Gyula (editor) (1994).Korai Magyar Történeti Lexikon (9-14. század)(Encyclopedia of the Early Hungarian History - 9-14th centuries). Budapest: Akadémiai Kiadó. tr. 467.ISBN 963 05 6722 9.{{Chú thích sách}}:|first= có tên chung (trợ giúp)
  19. ^Poulik, Josef (1978). "The Origins of Christianity in Slavonic Countries North of the Middle Danube Basin".World Archaeology. Quyển 10 số 2. tr. 158–171.
  20. ^abcDejiny Slovenska. Bratislava: AEP. 2000.{{Chú thích sách}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|authors= (trợ giúp)
  21. ^. tr. 167, 566.{{Chú thích sách}}:|title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  22. ^Annales Fuldenses, sive, Annales regni Francorum orientalis ab Einhardo, Ruodolfo, Meginhardo Fuldensibus, Seligenstadi, Fuldae, Mogontiaci conscripti cum continuationibus Ratisbonensi et Altahensibus / post editionem G.H. Pertzii recognovit Friderious Kurze; Accedunt Annales Fuldenses antiquissimi. Hannover: Imprensis Bibliopolii Hahniani. 1978.Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2009.."
  23. ^Tóth, Sándor László (1998).Levediától a Kárpát-medencéig("From Levedia to the Carpathian Basin"). Szeged: Szegedi Középkorász Műhely. tr. 199.ISBN 963 482 175 8.
  24. ^. tr. 51.{{Chú thích sách}}:|title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  25. ^. tr. 189–211.{{Chú thích sách}}:|title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  26. ^Kristó, Gyula (1996).Magyar honfoglalás - honfoglaló magyarok("The Hungarians' Occupation of their Country - The Hungarians occupying their Country"). Kossuth Könyvkiadó. tr. 84–85.ISBN 963 09 3836 7.
  27. ^Tibenský, Ján (1971).Slovensko: Dejiny. Bratislava: Obzor.
  28. ^"Academia Istropolitana". City of Bratislava. ngày 14 tháng 2 năm 2005.Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2008.
  29. ^Divided Memories: The Image of the First World War in the Historical Memory of Slovaks, Slovak Sociological Review, Issue 3 /2003[1]
  30. ^J. V. Polisencky,History of Czechoslovakia in Outline (Prague: Bohemia International 1947) at 113–114.
  31. ^Gerhard L. Weinberg,The Foreign Policy of Hitler's Germany: Starting World War II, 1937-1939 (Chicago, 1980), pp. 470–481.
  32. ^Leni Yahil,The Holocaust: The Fate of European Jewry, 1932-1945 (Oxford, 1990), pp. 402–403.
  33. ^For the higher figure, see Milan S. Durica,The Slovak Involvement in the Tragedy of the European Jews (Abano Terme: Piovan Editore, 1989), p. 12; for the lower figure, see Gila Fatran, "The Struggle for Jewish Survival During the Holocaust" inThe Tragedy of the Jews of Slovakia (Banská Bystrica, 2002), p. 148.
  34. ^Dawidowicz, Lucy. The War Against the Jews, Bantam, 1986. p. 403
  35. ^"Slovak bishop praises Nazi regime – BBC News".
  36. ^"Antisemitism and Xenophobia Today - Slovakia".Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  37. ^"Management of the Hungarian Issue in Slovak Politics"(PDF).Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  38. ^"German minority in Slovakia after 1918 (Nemecká menšina na Slovensku po roku 1918) (in Slovak)".Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2008.
  39. ^Coming home to Germany?: the integration of ethnic Germans from central and eastern Europe in the Federal Republic. New York; Oxford: Berghahn. 2002.{{Chú thích sách}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|authors= (trợ giúp)
  40. ^"benes-decrees-implications-eu-enlargement".Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  41. ^"Dr. Thomas Reimer, Carpathian Germans history".Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2002. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2002.
  42. ^Bratislava at euroWEATHER
  43. ^Poprad at euroWEATHER
  44. ^Sliač at euroWEATHER
  45. ^"Slovak-Hungarian Relations Worsen as Hungary's President Barred". Digitaljournal.com. ngày 22 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2009.
  46. ^"Gross domestic product in the 4th quarter of 2007". Statistical Office of the Slovak Republic. ngày 3 tháng 3 năm 2008.Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2008.
  47. ^"GDP per capita in PPS"(PDF). Eurostat. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  48. ^Slovak unemployment falls to 7.84 pct in Feb from Jan from Thomson Financial News Limited
  49. ^Eurozone unemployment up to 7.5%
  50. ^Slovakia revalues currency ahead of euro entry atGuardian.co.uk
  51. ^'Slovak euro exchange rate is set' at BBC
  52. ^Range of rank on the PISA 2006 science scale at OECD
  53. ^"Slovakia Is Sufficiently Developled to Offer Aid Within World Bank at TASR".Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  54. ^ab"Slovak Car Industry Production Almost Doubled in 2007".Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  55. ^"Bratislava in Encyclopædia Britannica". Encyclopædia Britannica. 2007.Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2007.
  56. ^"MIPIM 2007 - Other Segments". City of Bratislava. 2007.Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2007.
  57. ^ab"Transport and Infrastructure". City of Bratislava. 2007.Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2007.
  58. ^"Do Viedne už netreba ísť po okresnej ceste" (bằng tiếng Slovak).Pravda. 2007.Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2007.
  59. ^"Letisko Bratislava - O letisku - Štatistické údaje (Airport Bratislava - About airport - Statistical data)". Letisko M.R. Štefánika - Airport Bratislava. 2008.Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2008.
  60. ^"The number of tourists in Slovakia is increasing (Turistov na Slovensku pribúda)" (bằng tiếng Slovak). Aktualne.sk. ngày 30 tháng 6 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2007.
  61. ^20 tháng 9 năm 2007/clanok/na-slovensko-chodi-stale-najviac-turistov-z-cr.html "Most tourists in Slovakia still come from the Czech Republic (Na Slovensko chodí stále najviac turistov z ČR)" (bằng tiếng Slovak). Monika Martišková, Joj.sk. ngày 20 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2007.{{Chú thích web}}:Kiểm tra giá trị|url= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  62. ^European countries (Slovakia) at europa.eu.int
  63. ^"Fund of A.Stodola".Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2009.
  64. ^ab"Počet obyvateľov podľa pohlavia - obce (ročne) [om7102rr_obce=AREAS_SK]". Statistical Office of the Slovak Republic. ngày 31 tháng 3 năm 2025. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2025.
  65. ^Các nhà hoạt động chính trị và văn hoá Roma ước tính con sốngười Di-gan tại Slovakia lớn hơn, đưa ra con số từ 350,000 đến 400,000 người[2]Lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2013 tạiWayback Machine
  66. ^ab"Slovakia".The World Factbook.CIA. 2007.Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2008.
  67. ^M. Vašečka, "A Global Report on Roma in Slovakia", (Institute of Public Affairs: Bratislava, 2002) +Minority Rights Group. See:Equality, Diversity and Enlargement. European Commission: Brussels, 2003Lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009 tạiWayback Machine, p. 104
  68. ^Slovenskej Republiky, Národná Rada (1999)."Zákon 184/1999 Z. z. o používaní jazykov národnostných menšín" (bằng tiếng Slovak). Zbierka zákonov. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2009.[liên kết hỏng]
  69. ^The Slovaks in America. European Reading Room, Library of Congress.
  70. ^"Table 14 Population by religion"(PDF). Statistical Office of the SR. 2011.Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2012.
  71. ^Vogelsang, Peter (2002)."Deportations".The Danish Center for Holocaust and Genocide Studies.Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2008.{{Chú thích web}}:Đã bỏ qua tham số không rõ|các tác giả= (trợ giúp)
  72. ^Lawrence Barnett Phillips (1871).The dictionary of biographical reference: containing one hundred thousand names, together with a classed index of the biographical literature of Europe and America. S. Low, Son, & Marston. tr. 1020. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2009.
  73. ^Slovak Cuisine

Đọc thêm

[sửa |sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện vềSlovakia.

Liên kết ngoài

[sửa |sửa mã nguồn]
Tìm hiểu thêm về
Slovakia
tạicác dự án liên quan
Tìm kiếm WiktionaryTừ điển từ Wiktionary
Tìm kiếm CommonsTập tin phương tiện từ Commons
Tìm kiếm WikinewsTin tức từ Wikinews
Tìm kiếm WikiquoteDanh ngôn từ Wikiquote
Tìm kiếm WikisourceVăn kiện từ Wikisource
Tìm kiếm WikibooksTủ sách giáo khoa từ Wikibooks
Tìm kiếm WikiversityTài nguyên học tập từ Wikiversity
Chính phủ
Thông tin chung
Wikivoyage có cẩm nang du lịch vềSlovakia.
Biểu đồ gióBa LanBa LanBiểu đồ gió
SécCộng hòa SécUkrainaUkraina
   Slovakia    
ÁoÁo Hungary
Vị trí địa lý
Thành viên tổ chức quốc tế
Quốc gia thành viên và quan sát viên củaCộng đồng Pháp ngữ
Thành viên
Cờ Cộng đồng
Cờ Cộng đồng
Quan sát viên
* Thành viên dự khuyết.    
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Slovakia&oldid=74444314
Thể loại:
Thể loại ẩn:

[8]ページ先頭

©2009-2025 Movatter.jp