Sinh vật mô hình là các loài không phải con người được sử dụng rộng rãi trongnghiên cứu khoa học, nhằm tìm hiểu các hiện tượng sinh học cụ thể, với kỳ vọng rằng những khám phá từ sinh vật mô hình sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về hoạt động của các sinh vật khác (trong đó có con người).[1][2] Sinh vật mô hình được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu bệnh tật của con người khi thử nghiệm trên con người là không khả thi hoặc phi đạo đức.[3] Cơ sở sử dụng sinh vật mô hình là tất cả các sinh vật sống có chung nguồn gốc, sự bảo tồn các quá trình trao đổi chất và phát triển cơ thể cũng như sự tương đồng vật liệu di truyền trong quá trình tiến hóa.[4]
Nghiên cứu có sử dụng mô hình động vật là trọng tâm của hầu hết các thành tựu y học hiện đại.[5][6][7] Các thí nghiệm này đã đóng góp hầu hết các kiến thức cơ bản trong các lĩnh vực như sinh lý học và hóa sinh của con người, đã đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực như khoa học thần kinh và bệnh truyền nhiễm.[8][9] Các kết quả nổi bật bao gồm việc gần như xóa sổ bệnh bại liệt và phát triển ghép tạng, đã mang lại lợi ích cho cả con người và động vật.[5][10]
Một trong những sinh vật mô hình đầu tiên cho sinh học phân tử là vi khuẩnEscherichia coli sống phổ biến của hệ tiêu hóa ở người. Một số loạivirus lây nhiễm trênE. coli (thực khuẩn thể hay phage) cũng rất hữu ích cho việc nghiên cứu cấu trúc gen vàđiều hòa hoạt động gen (ví dụ như phage Lambda và phage T4). Tuy nhiên, người ta vẫn đang tranh luận liệu thực khuẩn thể có nên được phân loại là sinh vật hay không, vì chúng không có quá trình trao đổi chất và phụ thuộc vào vật chất của tế bào chủ để nhân lên.[11]
Ở sinh vật nhân chuẩn, một số loại nấm men, đặc biệt làSaccharomyces cerevisiae (nấm men bánh mì), đã được sử dụng rộng rãi trong di truyền học và sinh học tế bào, chủ yếu là vì chúng phát triển nhanh và dễ dàng nuôi cấy. Chu kỳ tế bào ở nấm men rất giống với chu kỳ tế bào ở người và được điều hòa bởi các protein tương đồng. Ruồi giấmDrosophila melanogaster được nghiên cứu vì nó dễ nuôi trong phòng thí nghiệm, sinh sản nhanh, có nhiều đặc điểm bẩm sinh dễ thấy và cónhiễm sắc thể đa sợi (khổng lồ) trong tuyến nước bọt có thể được quan sát dưới kính hiển vi quang học. Giun trònCaenorhabditis elegans cũng là một sinh vật mô hình hữu ích vì nó có các mô hình phát triển rất rõ ràng liên quan đến số lượng tế bào cố định và có thể nhanh chóng phân tích các bất thường.[12]
^Fields, S.; Johnston, M (ngày 25 tháng 3 năm 2005). "CELL BIOLOGY: Whither Model Organism Research?".Science.307 (5717):1885–1886.doi:10.1126/science.1108872.PMID15790833.
^abRoyal Society of Medicine (ngày 13 tháng 5 năm 2015)."Statement of the Royal Society's position on the use of animals in research".From antibiotics and insulin to blood transfusions and treatments for cancer or HIV, virtually every medical achievement in the past century has depended directly or indirectly on research using animals, including veterinary medicine.
^Lieschke, Graham J.; Currie, Peter D. (tháng 5 năm 2007). "Animal models of human disease: zebrafish swim into view".Nature Reviews Genetics.8 (5):353–367.doi:10.1038/nrg2091.PMID17440532.Biomedical research depends on the use of animal models to understand the pathogenesis of human disease at a cellular and molecular level and to provide systems for developing and testing new therapies.
^Institute of Medicine (1991).Science, Medicine, and Animals. National Academies Press. tr. 3.ISBN978-0-309-56994-1....without this fundamental knowledge, most of the clinical advances described in these pages would not have occurred.
Mandoli DF, Olmstead R (2000). "The importance of emerging model systems in plant biology".Journal of plant growth regulation.19 (3): 249-252.doi:10.1007/s003440000038.