Sinh học haysinh vật học (gọi tắt làsinh) (Tiếng Anh:biology) là một nhánhkhoa học tự nhiên nghiên cứu vềthế giới sinh vật và các đặc điểm củasự sống.[1][2][3] Nó là một nhánhkhoa học có phạm vi rộng nhưng có một số chủ đề thống nhất gắn kết nó với nhau thành một lĩnh vực duy nhất, mạch lạc.[1][2][3] Ngành tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và vớimôi trường, miêu tả những đặc điểm vàtập tính củasinh vật (ví dụ: cấu trúc, chức năng, sự phát triển, môi trường sống), cách thức cáccá thể vàloài tồn tại (ví dụ: nguồn gốc, sự tiến hóa và phân bổ của chúng). Trao đổi chất quan trọng đối với sinh vật giúp chúngphát triển, di chuyển vàsinh sản.[1][2][3] Cuối cùng, tất cả các sinh vật đều có thể điều chỉnh môi trường bên trong của chính nó.[1][2][3][4][5]
Sinh học bao hàm nhiều ngành học khác nhau được xây dựng dựa trên những nguyên lý riêng. Có 4 nguyên lý tạo thành nền tảng cho sinh học hiện đại:lý thuyết tế bào,tiến hóa,di truyền vàcân bằng nội môi.[6] Các môn học này có mối quan hệ qua lại với nhau, giúp ta hiểu về sự sống với các mức độ, phạm vi khác nhau.
Sự ra đời của sinh học bắt đầu từthế kỉ 19, khi các nhà khoa học tìm thấy được các đặc điểm chung cơ bản giữa các loài. Ngày nay, sinh học trở thành một môn học chuẩn và bắt buộc tại cáctrường học và Đại học trên khắp thế giới. Rất nhiều bài báo được công bố hằng năm ở trên khắp các tạp chí chuyên ngành về y và sinh.[7]
Việc phân loại các ngành con của sinh học rất đa dạng. Ban đầu, chúng được phân loại theo chủng loại các cá thể làm đối tượng nghiên cứu. Ví dụ:thực vật học, nghiên cứu về cây;động vật học, nghiên cứu về động vật; vàvi sinh học, nghiên cứu về các vi sinh vật. Tiếp đến, chúng lại được chia nhỏ dựa trên quy mô của các cá thể và phương pháp nghiên cứu chúng:hóa sinh nghiên cứu về hóa cơ bản của sự sống;sinh học phân tử nghiên cứu các tương tác phức tạp giữa các hệ thống của các phân tử sinh học;sinh học tế bào tìm hiểu các cấu trúc cơ bản tạo thành mọi sự sống. Như vậy, sự sống ở mức độnguyên tử vàphân tử được nghiên cứu thông quasinh học phân tử,hóa sinh vàdi truyền phân tử. Ở mức độ tế bào, nó được hiểu biết thông quasinh học tế bào và mức độ đa bào thì thông quasinh lý học,giải phẫu học vàmô học.Sinh học phát triển nghiên cứu sự sống ở các giai đoạnphát triển khác nhau hoặcphát triển cá thể của sinh vật.
Bức vẽ con nhặng xanh củaHooke, trích từ quyếnVi thể
Từsinh học trongtiếng Anh được gọi làbiology, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp với βίος, bios, "sự sống" và hậu tố -λογία, -logia, "môn học."[9][10] Thuật ngữ Latinh này lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1736: nhà khoa học Thụy ĐiểnCarl Linnaeus (Carl von Linné) đã sử dụng từbiologi trong quyểnBibliotheca botanica (Từ điển thực vật) của ông. Nó được sử dụng lại vào năm 1766 trong một tác phẩm có tựaPhilosophiae naturalis sive physicae: tomus III, continens geologian, biologian, phytologian generalis (Triết học tự nhiên và vật lý: Tập III) viết bởiMichael Christoph Hanov, học trò củaChristian Wolff. Thuật ngữ tiếng Đức,biologie, xuất hiện lần đầu một bản dịch tác phẩm Linnaeus năm 1771. Năm 1797,Theodor Georg August Roose sử dụng thuật ngữ trong lời nói đầu của cuốn sách với tựaGrundzüge der Lehre van der Lebenskraft (Các đặc điểm chính của học thuyết về sự sống).Karl Friedrich Burdach đã sử dụng thuật ngữ này vào năm 1800 trong một nghiên cứu về con người dưới các góc độhình thái học,sinh lý học vàtâm lý học(Propädeut zum Studien der Gesammten Heilkunst). Thuật ngữ ở dạng ngày nay xuất hiện trong cuốn luận án sáu tập:Biologie, oder Philosophie der lebenden Nature (Sinh học, hoặc triết học về bản chất sống)(1802-22) của Gottfried Reinhold Treviranus, người đã tuyên bố:[11]
Các đối tượng nghiên cứu của chúng tôi sẽ là các hình thức và biểu hiện khác nhau của sự sống, các điều kiện và quy luật theo đó các hiện tượng này xảy ra, và các nguyên nhân mà chúng đã được thực hiện. Khoa học liên quan đến những vấn đề này chúng tôi sẽ chỉ ra với cái tên "sinh học" [biologie] hoặc học thuyết về sự sống [Lebenslehre].
Mặc dù sinh học hiện đại là một phát triển trong thời gian tương đối gần đây, các ngành khoa học liên quan và bao gồm nó đã được nghiên cứu từthời Cổ đại.Triết học tự nhiên đã được nghiên cứu sớm nhất tận các nềnvăn minh cổ đại nhưLưỡng Hà,Ai Cập,tiểu lục địa Ấn Độ vàTrung Hoa. Tuy nhiên, nguồn gốc của sinh học hiện đại và cách tiếp cận đối với việc nghiên cứu về tự nhiên dường như lại bắt nguồn từHy Lạp cổ đại.[12][13] Trong khi nghiên cứu chính thức về thuốc bắt đầu từ thờiHippocrates (khoảng 460-370 TCN), chínhAristotle (384-322 TCN) lại đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của sinh học. Đặc biệt quan trọng là cuốnLịch sử Động vật của ông cùng các công trình khác, tác phẩm cho thấy những khuynh hướng thiên về lịch sử tự nhiên; sau đó là những công trình thực nghiệm hơn tập trung vào các nguyên nhân sinh học và đa dạng của sự sống. Người kế vị củaAristotle làTheophrastus xứLyceum, ông đã viết một loạt sách về thực vật học. Tập sách vẫn tồn tại như đóng góp quan trọng nhất củathời Cổ đại cho ngành khoa học thực vật, thậm chí đến tậnthời Trung Cổ.[14]
Sinh học bắt đầu nhảy vọt với sự cải tiến vượt bậc kính hiển vi bởiAnton van Leeuwenhoek. Nhờ đó, các học giả đã khám phá và quan sáttinh trùng,vi khuẩn,trùng cỏ. Họ đã tìm ra thế giới hiển vi thật phong phú. Các cuộc điều tra củaJan Swammerdam đã dẫn tới mối quan tâm mới trongcôn trùng học và giúp phát triển các kỹ thuật cơ bản về giải phẫu và nhuộm vi mẫu.[16]
Những tiến bộ trong kính hiển vi cũng có một tác động sâu sắc đến tư duy sinh học. Vào đầu thế kỷ 19, một số nhà sinh học đã chỉ ra tầm quan trọng củatế bào. Sau đó, vào năm 1838,Schleiden vàSchwann bắt đầu truyền bá những ý tưởng mà rất phổ quát hiện nay rằng (1) đơn vị cơ bản củasinh vật làtế bào và (2) các tế bào riêng biệt có tất cả các đặc tính của sự sống, mặc dù họ phản đối ý tưởng rằng (3) tất cảtế bào đến từ sự phân chia cáctế bào khác. Nhờ vào công trình củaRobert Remak vàRudolf Virchow vào những năm 1860 hầu hết các nhà sinh vật học đã chấp nhận cả ba nguyên lý, nay được gọi làhọc thuyết tế bào.[17][18]
Trong khi đó,phân loại học (taxonomy vàclassification) đã trở thành tâm điểm của các nhà sử gia tự nhiên.Carl Linnaeus xuất bản một hệ thống phân loại cơ bản cho thế giới tự nhiên vào năm 1735 (biến thể của những hệ thống đã được sử dụng từ lâu), và trong những năm 1750 ông đã đặt tên khoa học cho tất cả các loài vào thời của ông.[19]Georges Louis Leclerc, Bá tước xứ Buffon, đã đưa các loài vào các phân loại và coi các dạng sống làmềm dẻo, thậm chí còn đưa ra khả năng có tổ tiên chung. Mặc dù ông đã phản đốitiến hóa, Buffon là một nhân vật chủ chốt trong lịch sử các ý niệm vềtiến hóa; tác phẩm của ông cũng ảnh hưởng đến các lý thuyết tiến hóa củaLamarck vàDarwin.[20]
Ý niệmtiến hoá đầy đủ và nghiêm túc có nguồn gốc từ các tác phẩm củaJean-Baptiste Lamarck, ông là người đầu tiên đưa ra một học thuyết tiến hoá rõ ràng.[21] Ông cho rằng sự tiến hoá là kết quả của áp lực môi trường đối với đặc tính của động vật, có nghĩa là nếu sử dụng một cơ quan thường xuyên và chặt chẽ hơn, nó sẽ trở nên phức tạp và hiệu quả hơn, do đó động vật sẽthích nghi với môi trường của nó.Lamarck tin rằng những đặc điểm có được sau đó có thể được chuyển sang cho hậu duệ của chúng, bọn hậu duệ sẽ tiếp tục phát triển và hoàn thiện bản thân.[22] Tuy nhiên, nhà tự nhiên học lỗi lạc người AnhCharles Darwin, kết hợp cách tiếp cận địa lý học củaHumboldt,lý thuyết địa chất thống nhất củaLyell, các bài luận củaMalthus về tăng trưởng dân số, với chuyên môn về hình thái học và các quan sát tự nhiên rộng lớn, đã tạo ra một lý thuyết tiến hóahợp lý hơn dựa trênchọn lọc tự nhiên; lý luận và bằng chứng tương tự đã dẫnAlfred Russel Wallace đi đến những kết luận tương tự[23][24] Mặc dù nó là chủ đề gây tranh cãi xung quanh lý thuyết tiến hóa này (vẫn tiếp tục cho đến ngày nay), lý thuyết của Darwin đã nhanh chóng lan rộng khắp cộng đồng khoa học và sớm trở thành một tiên đề trung tâm của khoa học sinh học đang phát triển nhanh chóng.
Khám phá về sự biểu hiện vật lý củadi truyền đã đến cùng với các nguyên tắc tiến hoá vàdi truyền quần thể. Trong những năm 1940 và đầu những năm 1950, các thí nghiệm đã chỉ raDNA là thành phần củanhiễm sắc thể với chức năng mang các tính trạng đã được biết đến với tên gọi làgen. Tập trung vào các loại dạng sống mới nhưvi khuẩn vàvirus, cùng với việc khám phá ra cấu trúc chuỗi xoắn kép của DNA năm 1953, sinh học đã tiến sang thời kỳdi truyền phân tử. Từ những năm 1950 đến nay, sinh học đã được mở rộng rất nhiều trong lĩnh vực phân tử.Mã di truyền đã được khám phá bởiHar Gobind Khorana,Robert W. Holley vàMarshall Warren Nirenberg sau khi DNA được biết là chứa các codon-bộ ba mã hóa. Cuối cùng,Dự án Hệ gen Con người đã được đưa ra vào năm 1990 với mục đích lập bản đồ bộ gen chung của toàn thể con người. Dự án này đã được hoàn thành vào năm 2003,[25] với những phân tích tiếp tục được xuất bản.Dự án Hệ gen Con người là bước đầu tiên trong nỗ lực toàn cầu hoá để tích hợp kiến thức về sinh học với một định nghĩa chức năng, phân tử cho cơ thể con người và của các sinh vật khác.
Ảnh chụp tế bào ung thư đang phân chia, vớinhân (đặc biệt làDNA được nhuộm xanh). Tế bào giữa và bên phải đang ở kỳ trung gian nên DNA duỗi. Còn tế bào ở bên trái đang trải quanguyên phân nên DNA đã cô đặc.
Học thuyết tế bào phát biểu rằng:tế bào là đơn vị cơ bản của sự sống, rằng tất cả các sinh vật sống cấu tạo từ một tế bào (đơn bào) hoặc nhiều tế bào (đa bào), và tất cả các tế bào đều sinh ra từ các tế bào trước đó thông qua sựphân bào. Trong các sinh vật đa bào, mỗi tế bào trong cơ thể của cơ thể xuất phát từ một tế bàohợp tử duy nhất.Tế bào cũng được coi là đơn vị cơ bản liên quan đến nhiều quá trình bệnh lý.[26] Ngoài ra,dòng năng lượng diễn ra ở các tế bào trong các quá trình khác nhau là một phần của chức năng quan trọng:trao đổi chất. Cuối cùng, các tế bào chứathông tin di truyền (DNA), được truyền từ tế bào sang tế bào trong quá trìnhphân bào. Nghiên cứu về nguồn gốc của sự sống,thuyết tự phát sinh (abiogenesis), là những nỗ lực lớn để khám phá nguồn gốc của cáctế bào khởi nguyên.
Một khái niệm đóng vai trò trung tâm trong sinh học là sự sống thay đổi và phát triển thông qua quá trìnhtiến hóa, và cho rằng tất cả các dạng sống đều cónguồn gốc chung. Lý thuyết tiến hóa phát biểu rằng tất cả các sinh vật trên Trái Đất, dù còn tồn tại hay đãtuyệt chủng, đều có nguồn gốc từ mộttổ tiên chung hoặcvốn gen chung. Tổ tiên chung nhất(last universal common ancestor viết tắt làLUCA) này của tất cả các sinh vật được cho là xuất hiện vào khoảng 3,5 tỷ năm trước.[29] Các nhà sinh học coi tính phổ biến của mã di truyền là bằng chứng thuyết phục để ủng hộ lý thuyết tổ tiên chung nhất cho tất cả cácvi khuẩn,cổ khuẩn, và cácsinh vật nhân thực (Xem:Nguồn gốc của sự sống).[30]
Mô hình đơn giản cho chọn lọc tự nhiên, ở đây, chọn lọc tự nhiên đã ủng hộ tính trạng màu tối
Thuật ngữ "tiến hóa" đã bước vào từ điển thuật ngữ khoa học nhờJean-Baptiste de Lamarck năm 1809,[31] và năm mươi năm sau,Charles Darwin đã đưa ra một mô hình khoa học vềchọn lọc tự nhiên là động lực cho tiến hóa.[32][33][34] (Alfred Russel Wallace cũng được coi là người đồng khám phá ra khái niệm này khi ông giúp nghiên cứu và thử nghiệm với ý tưởng tiến hóa, xem:Nguồn gốc các loài)[35] Sự tiến hóa bây giờ được sử dụng để giải thích những đa dạng lớn của sự sống được tìm thấy trênTrái Đất.
Lịch sử tiến hóa của loài - mô tả các đặc tính của các loài khác nhau mà từ hậu duệ loài đó - cùng với mối quan hệ gia phả của nó với mọi loài khác được gọi làphát sinh chủng loại (phylogeny) loài đó. Các phương pháp tiếp cận khác nhau trong sinh học cho ta các thông tin về phát sinh chủng loại. Có thể bao kể đến như so sánh trình tự DNA (đặc biệt là so sánh bộ gen), thuộc lĩnh vựcsinh học phân tử, và so sánh hóa thạch hoặc các di chỉ khác của sinh vật cổ đại, thuộc vềcổ sinh vật học.[38] Các nhà sinh học tổ chức và phân tích mối quan hệ tiến hóa thông qua nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm phát sinh chủng loài học (phylogenetics), phân loại theo ngoại hình (phenetics) và phân loại theo nhánh (cladistics). (Để tóm tắt các sự kiện lớn trong sự tiến hóa của sự sống theo như các nhà sinh vật học hiện đại, xemTiến trình tiến hóa)
Sự tiến hoá có liên quan đến việc hiểu về lịch sử tự nhiên của các dạng sống và sự hiểu về tổ chức của các dạng sống hiện tại. Tuy nhiên, sự tổ chức này chỉ có thể hiểu được bằng cách hiểu chúng đã trải qua quá trình tiến hóa như thế nào. Do đó, tiến hóa là trung tâm của mọi lĩnh vực sinh học.[39]
Mặc dù thuyết tiến hóa được phổ biến rộng rãi, nhưng vẫn chưa có chắc chắn một bằng chứng thuyết phục nào cho lý thuyết này (thậm chí có những bằng chứng làm giả), và có nhiều ý kiến trái chiều,phản đối thuyết tiến hóa.
Bảng Punnett minh họa thí nghiệm lai của Mendel về cây dị hợp F1 hoa tím (Bb) tự thụ phấn.
Di truyền học là khoa học nghiên cứu về sự di truyền,[40][41][42] vềgene,tính di truyền vàbiến dị (variation) của sinh vật.[41][42]Gene mã hóa thông tin cần thiết của tế bào cho quá trình tổng hợp các protein. Protein là nhóm phân tử đóng vai trò quan trọng (nhưng không phải là hoàn toàn) quy địnhkiểu hình của sinh vật. Di truyền học cũng cấp các phương pháp nghiên cứu các chức năng của một gene nhất định, hoặc phân tích tương tác di truyền. Mọi sinh vật đều lưu giữ thông tin di truyền ở trong nhiễm sắc thể dưới dạng trình tự các nucleotide của phân tử DNA hoặc lưu giữ ở RNA. Cụ thể, năm 1865Gregor Mendel đã tiến hànhthí nghiệm lai giống thực vật và được phát hiện lại vào năm 1900, khai sinh raDi truyền học.[43][44][45][46]
Gen là nhân tố cơ bản của di truyền ở tất cả các sinh vật. Gen là mộtnhân tố di truyền và tương ứng với một đoạn DNA có ảnh hưởng đến hình thái hoặc chức năng của một cơ thể theo những cách cụ thể. Tất cả các sinh vật, dù là vi khuẩn hay động vật, chia sẻ cùng một bộ máy cơ bản sao chép và 'dịch' DNA thành cácprotein. Các tế bào sẽphiên mã một gen DNA thành một phiên bản RNA của gen, và mộtribosome sau đódịch mã RNA thành một chuỗi cácamino acid trước khi uốn gấp thành mộtprotein. Mã để dịch từ RNA đến amino acid là khá giống nhau đối với hầu hết các sinh vật. Chẳng hạn, một dãy trình tự DNA mã hóa cho proteininsulin ở người cũng mã hóa cho insulin nếu chèn vào các sinh vật khác, ví dụ như thực vật.[47]
DNA được tìm thấy là ở dạng các sợi thẳngnhiễm sắc thể trongsinh vật nhân thực và các vòng nhiễm sắc thể trongsinh vật nhân sơ. Một nhiễm sắc thể là một cấu trúc được tổ chức bao gồm DNA và proteinhistone. Bộ nhiễm sắc thể định vị trong tế bào và bất kỳ thông tin di truyền nào tìm thấy trongty thể,lục lạp, hoặc tại các địa điểm khác được gọi chung làbộ gen của tế bào. Trong sinh vật nhân thực, DNA mang gen nằm trong nhân tế bào, và có một lượng nhỏ nằm trong ti thể và lục lạp. Trong sinh vật nhân sơ, DNA được giữ trong hình dạng không cố định ởtế bào chất gọi làchất nhân.[48] Thông tin di truyền của một bộ gen lưu giữ bên trong các gen và tập hợp hoàn chỉnh của bộ thông tin này ở một sinh vật được gọi làkiểu gen của nó.[49]
Loài là một nhóm các cá thểsinh vật có những đặc điểm sinh học tương đối giống nhau và có khả năng giao phối với nhau và sinh sản ra thế hệ tương lai. Còn theo định nghĩa củaErnst Mayr, loài là nhóm cácquần thể tự nhiên có khả nănggiao phối với nhau và tương đối cách ly sinh sản với các nhóm khác. Ernst Mayr nhấn mạnh vềcách li sinh sản nhưng cũng giống như các quan điểm khác về loài, vấn đề này rất khó hoặc thậm chí không thể kiểm tra.[51]
Mộtlưới thức ăn là hệ thống cácchuỗi thức ăn đan xen với nhau thông qua một số mắt xích chung, miêu tả mối quan hệ phức tạp giữa các sinh vật trong mộthệ sinh thái.
Sinh thái học nghiên cứu sự phân bố và sinh sống của cácsinh vật sống và mối quan hệ qua lại giữa các sinh vật với nhau và vớimôi trường sống.[55] Môi trường sống của một sinh vật bao gồm các yếu tố vô sinh như khí hậu và địa chất cũng như các yếu tố hữu sinh là các sinh vật sống trong cùng mộtổ sinh thái.[52] Các hệ sinh thái thường được nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau từ cá thể (individual) và cácquần thể cho đến cáchệ sinh thái vàsinh quyển. Sinh thái học là môn khoa học đa ngành, nghĩa là dựa trên nhiều ngành khoa học khác nhau.
Sự sống còn của một sinh vật sống phụ thuộc vào tiếp nhận liên tục dòngnăng lượng. Cácphản ứng hóa học chịu trách nhiệm về cấu trúc và chức năng củasinh vật được điều chỉnh để lấy năng lượng từ các chất trong thức ăn của chúng và biến đổi các chất này giúp hình thành các tế bào mới cũng như duy trì các tế bào này. Trong quá trình này, các phân tử của cácchất hóa học trongthức ăn đóng hai vai trò; thứ nhất, chúng chứa năng lượng có thể biến đổi và tái sử dụng trong cácphản ứng sinh học,hóa học của sinh vật đó; thứ hai, thức ăn có thể được biến đổi thành các phân tử với cấu trúc mới (các phân tử sinh học mới) và sẽ sử dụng cho sinh vật đó.
Các sinh vật chịu trách nhiệm về việc đưa năng lượng vào mộthệ sinh thái được gọi là cácsinh vật sản xuất hoặc cácsinh vật tự dưỡng. Gần như tất cả các sinh vật như vậy lấy năng lượng ban đầu của chúng từ mặt trời.[56] Thực vật và một số sinh vật quang dưỡng khác sử dụng năng lượng mặt trời thông qua một quá trình gọi làquang hợp để chuyển đổi nguyên liệu thô thành các phân tử hữu cơ, nhưATP, phân tử có liên kết có thể bị phá vỡ để giải phóng năng lượng.[57] Tuy nhiên, một số hệ sinh thái phụ thuộc hoàn toàn vào năng lượng dosinh vật hóa dưỡng lấy từmethan,sulfide, hoặc các nguồn năng lượng khác ngoàiánh sáng.[58]
Một số năng lượng do đó, được giữ lại tạosinh khối và năng lượng giúp cho sự sinh trưởng và phát triển của các dạng sống khác. Đa số phần còn lại (tứckhông được chuyển thành sinh khối và năng lượng) bị mất đi dưới dạng các phân tử thừa thải và nhiệt năng. Các quá trình quan trọng nhất để chuyển đổi năng lượng dự trữ trong các chất hoá học thành năng lượng hữu ích để duy trì sự sống là sựtrao đổi chất[59] vàhô hấp tế bào.[60]
Mô hình một tế bào động vật điển hình với rất nhiều cácbào quan (organelle) vàcấu trúc khác nhau
Sinh học phân tử là một môn khoa học nghiên cứu giới sinh vật ở mức độphân tử.[61] Phạm vi nghiên cứu của môn này có sự giao thoa với các ngành khác trong sinh học đặc biệt làdi truyền học vàhoá sinh. Sinh học phân tử chủ yếu tập trung nghiên cứu mối tương tác giữa các hệ thống cấu trúc khác nhau trong tế bào, bao gồm mối quan hệ qua lại giữa quá trình tổng hợp củaDNA,RNA vàprotein và tìm hiểu cách thức điều hòa các mối tương tác này.
Tiến tới phạm vi lớn hơn,tế bào học nghiên cứu các cấu trúc và đặc tính sinh lý của tế bào, bao gồm các hành xử bên trong, tương tác với các tế bào khác, và với môi trường mà chúng ở. Nghiên cứu được thực hiện ở cấp độhiển vi lẫn cấp độphân tử, đối với các sinh vật đơn bào nhưvi khuẩn, cũng như đối với các tế bào chuyên biệt của sinh vật đa bào như ởcon người.
Thành phần cấu tạo nên tế bào và cách thức tế bào vận hành là một trong những hướng nghiên cứu chính củakhoa học sự sống. Sự giống nhau và khác nhau giữa các loại tế bào cũng được nghiên cứu trong sinh học phân tử và tế bào học. Những sự giống và khác nhau cơ bản tạo nên một bộ khung kiến thức chung mà người ta có thể áp dụng cho các loài tế bào khác cũng như quy nạp cho tất cả các loại tế bào.
Sinh lý học nghiên cứu các quá trình cơ học, vật lý và hoá sinh xảy ra trong cơ thể các sinh vật sống bằng cách xem xét hoạt động của tất cả các cấu trúc, bộ phận trong sinh vật hoạt động như thế nào.[70] Sinh lý học được phân chia thành 2 bộ môn nhỏ làsinh lý học thực vật vàsinh lý học động vật nhưng các nguyên lý về sinh lý học mang tính tổng quát đối với tất cả các loài sinh vật. Ví dụ, nhưng kiến thức về sinh lý tế bào nấm cũng có thể áp dụng đối với các tế bào người. Lĩnh vực sinh lý học động vật sử dụng các công cụ và phương pháp cho cảsinh lý học người cũng như các động vật khác. Sinh lý học thực vật cũng sử dụng một số kỹ thuật nghiên cứu của các bộ môn trên.[71] Sinh lý học nghiên cứu tương tác làm thế nào mà, ví dụ,hệ thần kinh,hệ miễn dịch,hệ nội tiết,hệ hô hấp vàhệ tuần hoàn. hoạt động và tương tác với nhau. Kiến thức từ việc nghiên cứu các hệ này được sử dụng trong các bộ môn định hướng chữa trị nhưthần kinh học vàmiễn dịch học.
Cân bằng nội môi là khả năng của một hệ thống mở điều chỉnh môi trường bên trong của nó nhằm duy trì các điều kiện ổn định. Chúng làm được điều này bằng cách thông qua các điều chỉnhcân bằng động được điều khiển bởi các cơ chế điều hòa tương quan. Tất cả các sinh vật sống, dù làđơn bào hoặcđa bào, đều có sự cân bằng nội môi.[73]
Để duy trì trạng thái cân bằng động-cân bằng nội môi và thực hiện một cách hiệu quả các chức năng nhất định, một hệ thống phải phát hiện và đáp ứng các thay đổi, kích thích. Sau khi phát hiện các thay đổi hoặc kích thích, một hệ thống sinh học thường phản ứng thông qua vòng phản hồi âm tính nhằm ổn định các điều kiện bằng cách làm giảm hoặc tăng hoạt động của cơ quan hoặc hệ cơ quan. Một ví dụ là việc phóngglucagon giúp phân giảiglycogen thành đường khi lượng đường huyết quá thấp.
Chọn lọc tự nhiên vàchọn lọc tình dục thường được cho là hành động trực tiếp nhất đối vớihành vi (ví dụ, động vật chọn làm gì khi đối mặt với kẻ săn mồi), được thể hiện trong giới hạn được đặt ra bởikhả năng thực hiện của toàn bộsinh vật (ví dụ: nó có thể chạy nhanh như thế nào) được xác định bởi cácđặc điểm phụ (ví dụ, thành phần loại sợi cơ). Một điểm yếu của mô hình hoạt động và khái niệm này là không có sự công nhận rõ ràng về vị trí của các đặc điểm lịch sử cuộc sống.
Sinh lý học tiến hóa là nghiên cứu về tiến hóa sinh lý, nghĩa là cách thức mà các đặc điểm chức năng của các cá thể trong quần thểsinh vật đã đáp ứng với sự lựa chọn qua nhiềuthế hệ trong lịch sử của quần thể.[75]
Trongdi truyền học quần thể, sự phát triển số lượng của mộtquần thể sinh vật lúc tăng lúc giảm như trên đường đồi núi. Những mũi tên chỉ hướng phát triển ưu tiên của quần thể, các điểm A, B và C là các điểm cực thịnh. Quả cầu đỏ miêu tả quần thể đang phát triển từ một điểm thấp lên đến đỉnh cực đại của một peak.
Sinh học tiến hóa nghiên cứu nguồn gốc và tổ tiên của cácloài, cũng như các thay đổi của chúng theo thời gian.
Sinh học tiến hóa là một lĩnh vực sinh học đa ngành vì rằng nó bao gồm các nhà khoa học từ nhiều chuyên môn khác nhau theo định hướngphân loại học. Ví dụ, thông thường mỗinhà phân loại học thường chuyên về một nhóm sinh vật nhất định như làđộng vật có vú,chim (ornithology), hoặcbò sát (herpetology). Mặc dù nghiên cứu trên các đối tượng khác nhau nhưng các nhà phân loại học vẫn cùng giải quyết những vấn đề chung trong tiến hóa.
Sinh học tiến hóa cũng bao hàm cả lĩnh vựccổ sinh vật học. Các nhà cổ sinh vật học thường sử dụng cácmẫu vật để lý giải về mô hình và hiện trạng của sự tiến hóa, cũng như cácthuyết tiến hóa hoặc thuyết vềdi truyền quần thể.
Tán tỉnh những con ốc sên Cornu aspersum ở Ireland, con bên phải có một chiếc phi tiêu tình yêu được bắn vào cơ thể của nó.
Tập tính học nghiên cứu cáchành vi của động vật (đặc biệt trong xã hội của loài vật như ởkhỉ vàchó sói, do đó đôi khi bộ môn này được coi là một nhánh củađộng vật học. Cácnhà tập tính học nghiên cứu chủ yếu quá trìnhtiến hóa của hành vi và kiến thức về tập tính học tuân theothuyết chọn lọc tự nhiên. Một trong những người đặt nền móng cho tập tính học hiện đại là nhà tập tính họcCharles Darwin với cuốn sách mang tựa đề "Sự bộc lộ cảm xúc ở động vật và người".[76]
Nhiều sự kiệnbiệt hóa tạo ra một hệ thống có cấu trúc cây về các mối quan hệ giữa các loài. Vai trò củahệ thống học là nghiên cứu các mối quan hệ và sự khác biệt và tương đồng giữa các loài và các nhóm loài.[77] Tuy nhiên, các hệ thống học đã từng là một lĩnh vực nghiên cứu năng động trong thời gian dài trước khi những tư tưởng tiến hóa học trở nên phổ biến.[78]
Theo truyền thống, các sinh vật sống được chia thành 5 giới:Monera,Protista,Fungi,Plantae,Animalia.[79] Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học hiện xem cách phân loại 5 giới này đã lỗi thời. Các hệ thống phân loại học hiện đại ban đầu với 3 vực:Archaea (vi khuẩn cổ);Bacteria (vi khuẩn Eubacteria) vàEukaryota (bao gồmsinh vật nguyên sinh,nấm,thực vật vàđộng vật)[80] Các vực này phản ánh liệu các tế bào có nhân hay không có nhân, cũng như sự khác biệt về thành phần hóa học của lớp bên ngoài tế bào.[80]
Tiếp theo, các giới được chia thành các đơn vị nhỏ hơn theo thứ tự:
Sinh học ngày nay đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu lớn, phức tạp bao gồm nhiều chuyên ngành hẹp. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến 4 nhóm ngành chính trong Sinh học.
Nhóm ngành nghiên cứu sự vận hành, hoạt động của các cấu trúc này ở cấp độmô, cơ quan (organ) và cơ thể (body);
Nhóm quan tâm đến sinh vật và lịch sử phát triển của các sinh vật;
Nhóm ngành xem xét các mối quan hệ, tương tác giữa các hệ thống sống.
Tuy nhiên, các ranh giới và phân chia chuyên ngành trên chỉ có tính ước lệ. Trong thực tế, các ranh giới này là không rõ ràng và thường xuyên có sự vay mượn về kỹ thuật, thuật ngữ, nguyên lý chung giữa các chuyên ngành.
Sinh học bao gồm rất nhiều các phân ngành nhỏ khác nhau, dưới đây liệt kê tương đối đầy đủ các ngành này:
Sự sống ngoài Trái Đất là một câu hỏi lớn của sinh học vũ trụ
Mô học - nghiên cứu các tế bào và các mô, một chi nhánh cực nhỏ của giải phẫu học
Sinh học vũ trụ (Astrobiology) (còn gọi làexobiology,exopaleontology vàbioastronomy) - nghiên cứu về sự tiến hóa, phân bố và tương lai của cuộc sống trong Vũ trụ
Hoá sinh học - nghiên cứu phản ứng hóa học cần thiết cho sự sống tồn tại và thực hiện chức năng, thường tập trung vào mức độ tế bào
Kỹ thuật sinh học - nghiên cứu về sinh học thông qua các phương tiện kỹ thuật với sự nhấn mạnh về kiến thức áp dụng và đặc biệt liên quan đến công nghệ sinh học
Địa lý sinh học - nghiên cứu phân bố các loài theo không gian và thời gian
Tin sinh học - sử dụng công nghệ thông tin để nghiên cứu, thu thập và lưu trữ dữ liệu sinh học và các dữ liệu sinh học khác
Sinh học Ngôn ngữ - nghiên cứu về sinh học và sự tiến hóa của ngôn ngữ.
Ngoại di truyền học - nghiên cứu các thay đổi di truyền trong sự biểu hiện gen hoặc các kiểu hình tế bào gây ra bởi các cơ chế khác với những thay đổi trong dãy DNA cơ bản
Huyết học - nghiên cứu máu và các cơ quan hình thành máu.
Sinh học biển - nghiên cứu các hệ sinh thái đại dương, thực vật, động vật và các sinh vật khác
Ảnh vi khuẩn E. Coli phóng đại 25,000 lần. Đây là đối tượng quan trọng trong nghiên cứu vi sinh vật học và công nghệ sinh họcVi sinh vật học - nghiên cứu vi sinh vật và các tương tác của chúng với các sinh vật khác
Virus học - nghiên cứu virus và một số các tác nhân giống như virus khác
Sinh học phân tử - nghiên cứu về sinh học và các chức năng sinh học ở cấp độ phân tử, một số khác qua hóa sinh
Công nghệ sinh học nano (Nanobiotechnology) - nghiên cứu về cách công nghệ nano có thể được sử dụng trong sinh học, và nghiên cứu về các sinh vật sống và các bộ phận ở mức độ nano hệ thống
Sinh học Tâm lý- nghiên cứu về cơ sở sinh học của tâm lý học
Sinh học Phóng xạ (Radiobiology) - nghiên cứu về hoạt động của bức xạ ion trên những vật thể sống.
Sinh học lượng tử - từ nghiên cứu cơ học lượng tử đến các đối tượng sinh học và các vấn đề.
Sinh học xã hội (Sociobiology) - nghiên cứu các căn cứ sinh học của xã hội học
Sinh học hệ thống - nghiên cứu tương tác phức tạp trong các hệ thống sinh học thông qua phương pháp tiếp cận tổng thể, tổng hợp
Sinh học cấu trúc - một nhánh của sinh học phân tử, hóa sinh, và sinh lý học liên quan đến cấu trúc phân tử của các đại phân tử sinh học
Sinh học lý thuyết - ngành sinh học sử dụng trừu tượng và mô hình toán học để giải thích các hiện tượng sinh học
Động vật học giúp ta hiểu thêm về thế giới động vật phong phú quanh taĐộng vật học - nghiên cứu động vật, bao gồm phân loại, sinh lý học, phát triển và hành vi, bao gồm:
^abcdUrry, Lisa; Cain, Michael; Wasserman, Steven; Minorsky, Peter; Reece, Jane (2017). "Evolution, the themes of biology, and scientific inquiry".Campbell Biology (ấn bản thứ 11). New York: Pearson. tr. 2–26.ISBN978-0134093413.
^abcdHillis, David M.; Heller, H. Craig; Hacker, Sally D.; Laskowski, Marta J.; Sadava, David E. (2020). "Studying life".Life: The Science of Biology (ấn bản thứ 12). W. H. Freeman.ISBN978-1319017644.
^abcdFreeman, Scott; Quillin, Kim; Allison, Lizabeth; Black, Michael; Podgorski, Greg; Taylor, Emily; Carmichael, Jeff (2017). "Biology and the three of life".Biological Science (ấn bản thứ 6). Hoboken, N.J.: Pearson. tr. 1–18.ISBN978-0321976499.
^Modell, Harold; Cliff, William; Michael, Joel; McFarland, Jenny; Wenderoth, Mary Pat; Wright, Ann (tháng 12 năm 2015). "A physiologist's view of homeostasis".Advances in Physiology Education. Quyển 39 số 4. tr. 259–266.doi:10.1152/advan.00107.2015.ISSN1043-4046.PMC4669363.PMID26628646.
^Serafini, Anthony (2013).The Epic History of Biology (Lịch sử hào hùng của sinh học) ISBN 9781489963277. Truy cập 14-7-2015.
^"Theophrastus". Bách khoa Britannica (tái bản lần thứ 11). Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
^Fahd, Toufic (1996). "Thực vật học và nông nghiệp". In Morelon, Régis; Rashed, Roshdi.Encyclopedia of the History of Arabic Science (Bách khoa lịch sử khoa học Arab)3. Routledge. p. 815. ISBN 978-0-415-12410-2.
^Mayr, Ernst.The Growth of Biological Thought, (Sự phát triển của tư duy sinh học) chương 10: "Bằng chứng của Darwin về tiến hóa và tổ tiên chung"; và chương 11: "Nguyên nhân tiến hóa: Chọn lọc tự nhiên"
^Mazzarello, P (tháng 5 năm 1999). "A unifying concept: the history of cell theory".Nature Cell Biology. Quyển 1 số 1. tr. E13–15.doi:10.1038/8964.PMID10559875.
^Urry, Lisa; Cain, Michael; Wasserman, Steven; Minorsky, Peter; Reece, Jane (2017). "Membrane structure and function".Campbell Biology (ấn bản thứ 11). New York: Pearson. tr. 126–142.ISBN978-0134093413.
^Dobzhansky, T. (1973). "Nothing in biology makes sense except in the light of evolution".The American Biology Teacher. Quyển 35 số 3. tr. 125–29.doi:10.2307/4444260.JSTOR4444260.
^Carroll, Joseph, biên tập (2003).On the origin of species by means of natural selection. Peterborough, Ontario: Broadview. tr. 15.ISBN978-1-55111-337-1.As Darwinian scholar Joseph Carroll of the University of Missouri–St. Louis puts it in his introduction to a modern reprint of Darwin's work: "The Origin of Species has special claims on our attention. It is one of the two or three most significant works of all time—one of those works that fundamentally and permanently alter our vision of the world... It is argued with a singularly rigorous consistency but it is also eloquent, imaginatively evocative, and rhetorically compelling."
^Griffiths, Anthony J.; Wessler, Susan R.; Carroll, Sean B.; Doebley, John (2015). "The genetics revolution".An Introduction to Genetic Analysis (ấn bản thứ 11). Sunderland, Massachusetts: W.H. Freeman & Company. tr. 1–30.ISBN978-1464109485.
^abGriffiths, Anthony J. F.; Miller, Jeffrey H.; Suzuki, David T.; Lewontin, Richard C.; Gelbart, William M., biên tập (2000)."Genetics and the Organism: Introduction".An Introduction to Genetic Analysis (ấn bản thứ 7). New York: W. H. Freeman.ISBN978-0-7167-3520-5.
^Thanbichler, M; Wang, SC; Shapiro, L (tháng 10 năm 2005). "The bacterial nucleoid: a highly organized and dynamic structure".Journal of Cellular Biochemistry. Quyển 96 số 3. tr. 506–21.doi:10.1002/jcb.20519.PMID15988757.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Tansley (1934); Molles (1999), p. 482; Chapinet al. (2002), p. 380; Schulzeet al. (2005); p. 400; Gurevitchet al. (2006), p. 522; Smith & Smith 2012, p. G-5
^Hillis, David M.; Sadava, David; Hill, Richard W.; Price, Mary V. (2014). "The distribution of Earth's ecological systems".Principles of Life (ấn bản thứ 2). Sunderland, Mass.: Sinauer Associates. tr. 845–863.ISBN978-1464175121.
^Bryant, DA; Frigaard, NU (tháng 11 năm 2006). "Prokaryotic photosynthesis and phototrophy illuminated".Trends in Microbiology. Quyển 14 số 11. tr. 488–96.doi:10.1016/j.tim.2006.09.001.PMID16997562.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Edwards, Katrina. "Microbiology of a Sediment Pond and the Underlying Young, Cold, Hydrologically Active Ridge Flank".Woods Hole Oceanographic Institution.
^Coelho, SM; Peters, AF; Charrier, B; Roze, D; Destombe, C; Valero, M; Cock, JM (tháng 12 năm 2007). "Complex life cycles of multicellular eukaryotes: new approaches based on the use of model organisms".Gene. Quyển 406 số 1–2. tr. 152–70.doi:10.1016/j.gene.2007.07.025.PMID17870254.{{Chú thích tạp chí}}: Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
^Rodolfo, Kelvin (tháng 1 năm 2000)."What is homeostasis?".Scientific American.Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
Alberts, Bruce (2002).Molecular Biology of the Cell. Johnson, A, Lewis, J, Raff, M, Roberts, K & Walter, P (ấn bản thứ 4). Garland.ISBN978-0815332183.OCLC145080076.
Tobin, Allan (2005).Asking About Life. Dusheck, Jennie (ấn bản thứ 3). Belmont, CA: Wadsworth.ISBN0-534-40653X.
Arrhenius, Gustaf; và đồng nghiệp (1997). "Entropy and Charge in Molecular Evolution—the Case of Phosphate".Journal of Theoretical Biology. Quyển 187 số 4. tr. 503–22.doi:10.1006/jtbi.1996.0385.PMID9299295.
Hartman, Hyman (1998). "Photosynthesis and the Origin of Life".Origins of Life and Evolution of Biospheres. Quyển 28 số 4–6. tr. 515–521.doi:10.1023/A:1006548904157.