Tên của hòn đảo bắt nguồn tử một từ cổ (thời trướcLa Mã) làsard (La Tinh hóa:sardus, danh từ giống cái làsarda). Có lẽ từ này bắt nguồn từ tên của thầnSardus, một vị thần của hòn đảo này. NgườiHy Lạp và La Mã cổ đã gọi hòn đảo này bằng các tên Ichnusa (phiên bản La Tinh hóa của cái tên Hy Lạp làHyknousa), Sandalion, Sardinia và Sardo.
Sardegna là hòn đảo lớn thứ hai tạiĐịa Trung Hải, với diện tích 23.821 km². Hòn đảo nằm giữa 38° 51' và 41° 15' độ vĩ Bắc và 8° 8' và 9° 50' độ kinh Đông. Ở phía tây Sardegna là biển Sardegna, một bộ phận của Địa Trung Hải; ở phía đông của Sardegna làbiển Tyrrhenus, cũng là một bộ phận của Địa Trung Hải.[1] Bờ biển của Sardegna dài 1.849 km và thường là có cao độ lớn và địa hình đá, với các đường bờ biển trài dài tương đối thẳng, nhiều mũi dất nổi bật, một số vịnh rộng và sâu,đảo hẹp, vịnh nhỏ và một số đảo ngoài khơi.
Không giống như Sicilia và lục địa Ý, Sardegna không hay bị động đất. Đá trên đảo có niên đại từĐại Cổ sinh (lên đến 500 triệu năm tuổi). Do đã xảy ra quá trình xói mòn kéo dài ở vùng cao của đảo, đã tạo thànhđá hoa cương, đá phiến, trachit, bazan (được gọi là "jaras" hay "gollei"), sa thạch và đá vôi dolomit, có độ cao trung bình 300 đến 1.000 mét. Đỉnh cao nhất tại Sardegna làPunta La Marmora (1.834 m), một bộ phận của dãy núiGennargentu ở trung tâm của đảo. Các chuỗi núi khác làMonte Limbara (1.362 m) ở phía đông bắc,dãy Marghine và Goceano (1.259 m) chạy chéo chữ thập 40 km (25 mi) về phía bắc,Monte Albo (1057 mét), dãy Sette Fratelli Range ở đông nam, vàdãy núi Sulcis và Monte Linas (1236 mét). Các dãy núi và cao nguyên trên đảo bị phân tách bởi các bình nguyên và thung lũng phù sa rộng, ví dụ nhưCampidano ở tây nam giữaOristano vàCagliari vàNurra ở tây bắc.
Sardegna có một vài con sống chính, lớn nhất làTirso, dài 151 km (94 mi), chảy về phía tây, sôngCoghinas (115 km) và sôngFlumendosa (127 km). Có 54hồ nhân tạo và đập để cung cấp nước và thủy điện, ví dụ nhưhồ Omodeo vàhồ Coghinas. Hồ nước ngọt tự nhiên duy nhất tại Sardegna làLago di Baratz. Có một số đầm phá và vũng lớn, nông và nước mặn nằm dọc theo 1.850 km (1.150 mi) bờ biển của Sardegna.
Hòn đảo cókhí hậu Địa Trung Hải điển hình. Trong năm có khoảng 135 ngày nắng, với lượng mưa tập trung chủ yếu vào mùa đông và mùa thu, có một số trận mưa nặng hạt vào mùa xuân và có tuyết rơi ở vùng cao. Nhiệt độ trung bình dao động từ 11 đến 17 °C (52 đến 63 °F).[2]Gió Mistral thổi từ phía tây bắc là loại gió chiếm ưu thế và thổi trong suốt cả năm, mặc dù thường thấy nó xuất hiện nhiều nhất vào mùa đông và mùa xuân. Loại gió này có thể thổi khá mạnh, song thường mang tính khô và mát.
Với mật độ 69 người/km², khoảng hơn 1/3 tỉ lệ trung bình của cả nước, Sardegna là vùng thưa dân thứ tư tại Ý. Phân bổ dân cư trên đảo có đặc điểm bất thường khi so sánh với các vùng ven biển khác của Ý. Trên thực tế, trái với xu hướng chung, lúc trước các khu dân cư đô thị không chủ yếu nằm dọc theo bờ biển mà có xu hướng nằm ở trung tâm của đảo. Điều này có nguyên nhân lịch sử, bao gồm việc đảo đã phải chịu các cuộc tấn công củangười hồi giáo vào thờiTrung cổ (khiến cho khu vực bờ biển không an toàn), các vùng nội địa của đảo có khung cảnh đồng quê, trong khi các đồng bằng ven biển là các đầm lầy, chúng chỉ được cải tạo trong thế kỷ 20. Tuy nhiên, tình hình dã bịddaor ngược với việc phát triển du lịch bờ biển; ngày nay toàn bộ các trung tam đô thị lớn của Sardegna đều nằm bên bờ biển, trong khi vùng nội địa của đảo có dân cư rất thưa thớt.
Đây là vùng cótỷ suất sinh thấp nhất tại Ý[4] (1,087 ca sinh trên 1 phụ nữ), và là vùng có tỷ lệ sinh tháp thứ hai;[5] các yếu tố này, cùng với quá trình đô thị hóa ở mức độ cao, đã cho phép Sardegna gìn giữ được phần lớn môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, dân cư trên đả đã tăng lên trong những năm gần đây do nhập cư, chú yếu là từĐông Âu (đặc biệt làRomânia),châu Phi vàTrung Quốc. Đến cuối năm 2010, Sardegna có 37.853 người nước ngoài cư trú, chiếm 2,3% tổng dân số Sardegna.[6] Các quốc tịch được đại diện nhiều nhất là:
Tuổi thọ trung bình tại Sardegna là 81 (85 với nữ[7] và 78 với nam[7]). Sardegna cùng với đảoOkinawa của Nhật Bản có tỷ lệ người bách niên cao nhất thế giới (22 người/100.000 cư dân).